Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ: Nghiên cứu tại Bệnh viện Vinmec Times City năm 2025

NCKH: Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ: Nghiên cứu tại Bệnh viện Vinmec Times City năm 2025

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mô tả kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ và phân tích các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City năm 2025.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2025 với 107 điều dưỡng tham gia trả lời bộ câu hỏi đánh giá kiến thức và sự tự chủ trong phòng, chống phản vệ. Dữ liệu được phân tích bằng SPSS 19.0.

Kết quả: 76,6% điều dưỡng đạt mức kiến thức chung về phản vệ; 57% đạt mức tự chủ chung trong xử trí các tình huống phản vệ. Tỷ lệ điều dưỡng đã được tập huấn trong vòng 1 năm có kiến thức cao hơn rõ rệt so với nhóm chưa tập huấn gần đây (92,7% so với 66,7%; p<0,01). Điều dưỡng có kiến thức chưa đạt có xu hướng tự chủ thấp hơn đáng kể trong xử trí phản vệ (POR = 5,24; 95% CI: 1,95–14,01; p<0,05).

Kết luận: Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ còn chưa đồng đều. Cần tăng cường tập huấn chuyên sâu để nâng cao năng lực thực hành

Từ khoá: kiến thức, xử trí phản vệ, tự chủ, điều dưỡng.

 

ABSTRACT

Objective: To describe nurses’ knowledge and autonomy in managing anaphylaxis and analyze associated factors at Vinmec Times City International Hospital in 2025.

Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted from February to April 2025, involving 107 nurses who completed a structured questionnaire assessing knowledge and autonomy in anaphylaxis management. Data were analyzed using SPSS 19.0.

Results: 76.6% of nurses demonstrated adequate knowledge of anaphylaxis, and 57% reported overall autonomy in managing anaphylactic cases. Nurses who received training within the past year had significantly better knowledge (92.7%) compared to those who had not (66.7%; p<0.01). Nurses with inadequate knowledge were more likely to lack autonomy in clinical situations (POR = 5.24; 95% CI: 1.95–14.01; p<0.05).

Conclusions: Nurses’ knowledge and autonomy in managing anaphylaxis were variable. Enhanced training programs are needed to improve clinical readiness.

Keywords: knowledge, management of anaphylaxis, autonomy, nurses

 

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Phản vệ là một phản ứng dị ứng cấp tính xảy ra khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên, có thể biểu hiện qua nhiều triệu chứng lâm sàng khác nhau và trong một số trường hợp nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong [1], [7]. Nghiên cứu của Lê Thị Thùy Linh phân tích các trường hợp phản vệ được ghi nhận trong báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại Việt Nam giai đoạn 2010–2013 cho thấy, phản vệ chiếm từ 8,9% đến 10,9% tổng số phản ứng bất lợi liên quan đến thuốc [4].

Điều dưỡng viên giữ vai trò then chốt trong phát hiện sớm và xử trí kịp thời các ca phản vệ thông qua các nhiệm vụ như tiếp đón ban đầu, chăm sóc người bệnh, hướng dẫn sử dụng thuốc và thực hiện các kỹ thuật tiêm truyền [2]. Trong các tình huống phản vệ diễn ra đột ngột, điều dưỡng có thể thực hiện xử trí ban đầu với các thuốc cấp cứu có sẵn mà không cần chờ chỉ định từ bác sĩ, nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh.

Do đó, kiến thức vững chắc về phản vệ và khả năng tự chủ trong thực hành lâm sàng là điều kiện tiên quyết giúp điều dưỡng nhận diện nhanh chóng và đưa ra quyết định xử trí hiệu quả trong tình huống khẩn cấp. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hai mục tiêu: (i) Mô tả thực trạng kiến thức và sự tự chủ trong phòng, chống phản vệ của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vinmec Times City năm 2025; (ii) Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức và sự tự chủ trong phòng, chống phản vệ của điều dưỡng tại cơ sở nghiên cứu.

 

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1.  Đối tượng nghiên cứu

Điều dưỡng lâm sàng đang công tác tại bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vimec Times City.

  1. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2025 tại Bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vimec Times City – Hà Nội

  1. Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

  1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

Áp dụng phương pháp chọn toàn bộ. 107 điều dưỡng thực hiện các nhiệm vụ chăm sóc trực tiếp bệnh nhân tại các khoa lâm sàng tại bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vimec Times City được chọn vào nghiên cứu.

  1. Biến số nghiên cứu

Phần I: Biến số về thông tin cá nhân và vị trí việc làm của đối tượng nghiên cứu: Giới, tuổi, năm công tác, vị trí công việc của điều dưỡng viên

Phần II: Biến số về kiến thức phòng, chống phản vệ bao gồm 23 câu hỏi chia thành 4 nhóm nhỏ: “Khái niệm và nguyên nhân phản vệ, nhóm kiến thức về chẩn đoán phản vệ, nhóm kiến thức về xử trí phản vệ, nhóm kiến thức về dự phòng phản vệ”.

Phần III: Biến số về sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ bao gồm 3 câu hỏi đánh giá các khía cạnh tự chủ của điều dưỡng viên: Sự tự chủ trong tiếp cận bệnh nhân; Sự tự chủ trong xử trí ban đầu; Sự tự chủ trong trường hợp ca lâm sàng khó. Sự tự chủ chung đạt được khi điều dưỡng có thể tự chủ trong cả 3 tính huống trong phòng và xử trí phản vệ.

  1. Kỹ thuật, công cụ và quy trình thu thập số liệu

Bộ câu hỏi phỏng vấn được soạn sẵn dựa trên tham khảo một số nghiên cứu trước đây đã triển khai về đánh giá kiến thức về phòng, chống phản vệ của Nguyễn Thanh Vân [6] và sự tự chủ trong thực hành lâm sàng của Nguyễn Thị Kim Oanh và Nguyễn Thị Chanh [5]. Bộ câu hỏi được điều chỉnh nhằm đánh giá nâng cao và chuyên sâu hơn về kiến thức về phòng, chống phản vệ và chuyên biệt cho sự tự chủ của điều dưỡng viên trong xử trí phản vệ. Kiến thức chung về phòng, chống phản vệ được đánh giá ở mức đạt khi đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) trả lời đúng trên 55% số câu hỏi.

  1. Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu được nhập với Exel 2016 và xử lý với phần mềm thống kê SPSS 19.0. Các Biến số định định tính được thống kê mô tả tần số và tỷ lệ phần trăm. Sự khác biệt được xem xét qua test thống kê Chi bình phương.

  1. Đạo đức nghiên cứu

Nghiên cứu mô tả, tuân thủ các quy đinh trong nghiên cứu y sinh học.

  1. KẾT QUẢ

Bảng 3.1. Đặc điểm của cá nhân, công việc và tình trạng tập huấn của ĐTNC

Đặc điểm

 

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Nhóm tuổi

(Mean ± SD)

18-30

32

29,9

31-60

75

70,1

Giới tính

Nam

26

24,3

Nữ

81

75,5

Trình độ chuyên môn

Cao đẳng

19

17,8

Đại học

75

70,1

Sau đại học

13

12,1

Vị trí công việc

Chăm sóc trực tiếp bệnh nhân

87

81,3

Công việc hành chính/khác

20

18,7

Tình trạng tập huấn về phản vệ

Đã được tập huấn trong vòng 1 năm

41

38,3

Khác

66

61,7

Bảng 1 cho thấy các đặc điểm cá nhân và vị trí việc làm của ĐTNC. Kết quả cho thấy nhóm tuổi >30 chiếm đa số với 70,1% cao hơn nhóm tuổi 18-30 với 29,9%. Tỷ lệ nữ giới chiếm đa số với 75,5% trong khi đó 24,3% là điều dưỡng nam. Đa số điều dưỡng có trình độ đại học chiếm 70,1%, nhóm điều dưỡng có trình độ cao đẳng chiếm 17,8% và 12,1% có trình độ sau đại học. Có 81,3% điều dưỡng có nhiệm vụ chính là chăm sóc trực tiếp bệnh nhân tại các khoa lâm sàng, trong khi đó 12,1% có công việc chính là hành chính hoặc không chăm sóc trực tiếp bệnh nhân. Có 38,3% ĐTNC cho biết đã được tập huấn về sốc phản vệ trong vòng 1 năm gần nhất.

Bảng 3.2. Kiến thức của ĐTNC về phòng, chống phản vệ

Nội dung

Đạt

Không đạt

N (%)

N (%)

Kiến thức về khái niệm phản vệ

42 (39,3)

65 (60,7)

Kiến thức về chẩn đoán phản vệ

103 (96,3)

4 (3,7)

Kiến thức về xử trí phản vệ

80 (74,8)

27 (25,2)

Kiến thức về dự phòng phản vệ

80 (74,8)

27 (25,2)

Kiến thức chung

82 (76,6)

25 (23,4)

Bảng 2 cho thấy tỷ lệ ĐTNC có kiến thức về phòng, chống phản vệ đạt 76,6% trong đó thấp nhất là nhóm kiến thức liên quan đến khái niệm về phản vệ với tỷ lệ đạt chỉ chiếm 39,3%, cao nhất là nhóm kiến thức về chẩn đoán phản vệ với mức điều dưỡng có kiến thức ở mức đạt chiếm 96,3%. Nhóm kiến thức về xử trí và dự phòng phản vệ đều có mức đạt là 74,8%.

Bảng 3.3. Sự tự chủ của ĐTNC trong xử trí phản vệ

Câu hỏi

Đạt

Không đạt

N (%)

N (%)

Sự tự chủ trong tiếp cận bệnh nhân

102 (95,3)

5 (4,7)

Sự tự chủ trong xử trí ban đầu

100 (93,5)

7 (6,5)

Sự tự chủ trong trường hợp ca lâm sàng khó

67 (62,6)

40 (37,4)

Sự tự chủ chung (Sự tự chủ trong cả 3 tình huống)

61 (57,0)

46 (43,0)

Bảng 3 cho thấy đa số điều dưỡng đều có tính chủ động trong xử trí phản vệ, trong đó tỷ lệ cao nhất là sự tự chủ khi tiếp cận bệnh nhân với tỷ lệ đạt ở mức 95,3%, sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí ban đầu đạt mức 93,5% và thấp nhất là sự tự chủ trong các ca lâm sàng khó với chỉ 62,6% điều dưỡng cho biết có thể tự chủ kiểm soát trong các ca lâm sàng khó. Có 57,0 điều dưỡng đạt mức tự chủ trong cả 3 tình huống xử trí phản vệ.

Bảng 3.4. Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân cá nhân, công việc, tình trạng tập huấn với kiến thức chung về phòng, chống phản vệ của ĐTNC

Yếu tố liên quan

Kiến thức của ĐTNC

POR

(95%CI)

p

Không đạt

N (%)

Đạt

N (%)

Nhóm tuổi

18-30

6 (18,8)

26 (81,3)

0,7 (0,24-1,90)

0,32

31-60

19 (25,3)

56 (74,7)

Giới tính

Nam

6 (23,1)

26 (76,9)

0,97 (0,34-2,79)

0,6

Nữ

19 (23,5)

62 (76,5)

Trình độ chuyên môn

Cao đẳng

5 (26,3)

14 (73,7)

1,21 (0,39-3,78)

0,47

Đại học

20 (22,7)

68 (77,3)

 

Vị trí công việc

Chăm sóc trực tiếp

18 (20,7)

69 (79,3)

0,48 (0,17-1,39)

0,14

Khác

7 (35,0)

13 (65,0)

Đào tạo liên tục

Được tập huấn trong năm

3 (7,3)

38 (92,7)

0,16 (0,04-0,57)

0,01

Không

22 (33,3)

44 (66,7)

Test: Chi bình phương

Nhận xét: Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn và vị trí công việc với kiến thức chung về phòng chống phản vệ của điều dưỡng viên. Nhóm điều dưỡng đã được tập huấn trong vòng 1 năm có kiến thức tốt hơn so với nhóm không được tập huấn trong 1 năm gần nhất (92,7% so với 66,7%; p<0,01), tuy nhiên do tần số mong đợi thấp, dữ liệu chưa đủ lớn để khẳng định có ý nghĩa về mặt thống kê.

Bảng 3.5. Liên quan giữa các đặc điểm với sự tự chủ trong xử trí phản vệ của ĐTNC

 

Yếu tố liên quan

Sự tự chủ

POR

(95%CI)

p

Tự chủ thấp

N (%)

Tự chủ cao

N (%)

Nhóm tuổi

18-30

14 (43,8)

18 (56,3)

1,04 (0,45-2,41)

0,54

31-60

32 (42,7)

43 (57,3)

Giới tính

Nam

11 (42,3)

15 (57,7)

0,96 (0,39-2,36)

0,56

Nữ

35 (43,2)

46 (56,8)

Trình độ chuyên môn

Cao đẳng

5 (26,3)

14 (73,7)

0,41(0,14-1,23)

0,85

Đại học

41 (46,6)

47 (53,4)

 

Vị trí công việc

Chăm sóc trực tiếp

40 (46,0)

47 (54,0)

1,99 (0,70-5,65)

0,15

Khác

6 (30,0)

14 (70,7)

Đào tạo liên tục

Được tập huấn trong năm

15 (36,6)

26 (63,4)

0,65 (0,29-1,45)

0,20

Không

31 (47,0)

35 (63,0)

Kiến thức chung

Không đạt

18 (72,0)

7 (28,0)

5,24 (1,95-14,01)

0,00

Đạt

27 (32,9)

55 (67,1)

Test: Chi bình phương

Nhận xét: Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn và vị trí công việc, và tình trạng tập huấn với sự tự chủ trong xử trí phản vệ của điều dưỡng viên. Tuy nhiên có mối liên quan giữa kiến thức chung với sự tự chủ trong xử trí phản vệ của điều dưỡng, cụ thể điều dưỡng có kiến thức chung về phòng, chống phản vệ kém có sự tự chủ thấp hơn trong các tình huống xử trí phản vệ (POR=5,24; 95% CI:1,95-14,01; p<0,05)

  1. BÀN LUẬN

Nghiên cứu này xây dựng bộ câu hỏi về phòng, chống phản vệ dựa trên sự tham khảo một số nghiên cứu khác đã tiến hành cùng chủ đề và thông tư 51/2017/TT-BYT về hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ [1]. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức về phòng, chống phản vệ trong nghiên cứu này ở mức 76,6% cao hơn so với một số nghiên cứu đã được tiến hành trước đây. Nghiên cứu của Nghiên cứu của Joanna Lange và cộng sự tại Ba Lan năm 2020 về kiến thức phòng, xử trí phản vệ trên 2 nhóm điều dưỡng viên và nhân viên cấp cứu  cho thấy tỷ lệ điều dưỡng viên có kiến thức tốt về phản vệ là 72% [8]. Nghiên cứu của Nguyễn Hải Lâm tại Nam Định cho thấy rằng tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức chung về phòng, chống phản vệ ở mức 68,6% [3]. Tuy nhiên sự hiểu biết của điều dưỡng viên không đồng đều: kiến thức của ĐTNC về khái niệm phản vệ ở mức đạt thấp, trong khi đó điều dưỡng viên lại có kiến thức khá tốt về chẩn đoán phản vệ. Điều này có thể là do quá trình đào tạo trước đây tập trung nhiều về các phần trọng tâm nhằm giúp điều dưỡng nhận biết và xử trí phản vệ trên thực tế, tuy nhiên đây cũng là gợi ý để xây dựng các chương trình đào tạo trong tương lai tốt hơn nhằm mang lại kiến thức toàn diện về phòng, chống phản vệ cho điều dưỡng viên.

Trong nhiều tình huống lâm sàng, điều dưỡng viên là người đầu tiên tiếp cận và xử trí các tình huống phản vệ. Chính vì vậy sự tự chủ của điều dưỡng viên rất quan trọng giúp người bệnh tận dụng được khoảng thời gian vàng, nhất là trong tình huống sốc phản vệ nhằm tránh nguy cơ tử vong. Nghiên cứu cho thấy rằng điều dưỡng viên có thể tự chủ tốt trong các tình huống tiếp cận, nhận định bệnh nhân và xử trí ban đầu, tuy nhiên sự tự chủ giảm tương đối ở tình huống các ca lâm sàng khó. Điều này dễ hiểu trong bối cảnh tất cả các tình huống lâm sàng chứ không chỉ xét riêng các tình huống phản vệ.

Nghiên cứu này không cho thấy tương quan giữa các đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, khoa công tác với kiến thức chung về dự phòng và xử trí phản vệ. Trong nghiên cứu của Nguyễn Hải Lâm tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định cho thấy rằng điều dưỡng có trình độ đại học và sau đại học có kiến thức tốt hơn về phòng, chống phản vệ so với nhóm trung cấp/cao đẳng [3]. Sự khác biệt này có thể là do tiêu chuẩn lựa chọn nhân viên ở các bệnh viện khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu này cho thấy rằng các điều dưỡng được tập huấn về phản vệ trong vòng 1 năm có kiến thức ở mức đạt cao hơn so với nhóm điều dưỡng không được tập huấn. Điều này gợi ý rằng việc tập huấn nâng cao năng lực trong phòng, chống phản vệ nên được diễn ra thường xuyên hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy có mối quan hệ giữa kiến thức chung về phòng, chống phản vệ với sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí các tình huống phản vệ trong đó nhóm điều dưỡng có kiến thức tốt có xu hướng tự chủ hơn trong các tình huống phản vệ trên lâm sàng. Trong nghiên cứu về sự tự chủ trong thực hành của điều dưỡng viên tại bệnh viện Quân y 211 năm 2020 của Nguyễn Thị Kim Oanh và Nguyễn Thị Chanh cũng cho thấy khía cạnh tương tự khi những điều dưỡng có môi trường thực hành lâm sàng và kiến thức tốt có xu hướng tự chủ cao hơn [5]. Điều này củng cố về sự cần thiết của quá trình đào tạo nâng cao kiến thức cho điều dưỡng viên nhằm tăng sự tự chủ trong các tình huống xử trí phản vệ trên lâm sàng.

  1. KẾT LUẬN

Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt yêu cầu về phòng, chống phản vệ là 76,6%, trong khi mức độ tự chủ toàn diện trong xử trí phản vệ chỉ đạt 57%. Có mối liên quan chặt chẽ giữa kiến thức và sự tự chủ trong xử trí phản vệ. Điều dưỡng được tập huấn trong vòng 1 năm có kiến thức và năng lực cao hơn rõ rệt. Kết quả nhấn mạnh sự cần thiết của các chương trình đào tạo và tập huấn định kỳ, nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và sự chủ động của điều dưỡng trong các tình huống cấp cứu phản vệ.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1. Bộ Y tế (2017). Thông tư số:51/2017/TT-BYT về "Hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ".

2. Bộ Y Tế (2021). Thông tư số:31/2021/TT-BYT về việc "Quy định hoạt động điều dưỡng trong bệnh viện".

3. Nguyễn Hải Lâm (2024). Kiến thức của điều dưỡng về phòng và xử trí phản vệtại bệnh viện đa khoa tỉnh Nam Định. Tạp chí Y học Việt Nam, 560 (141-145),

4. Lê Thị Thùy Linh và Nguyễn Hoàng Anh (2015). Phân tích các trường hợp phản vệ ghi nhận từ báo cáo ADR tại Việt Nam giai đoạn 2010-2013, Luận văn dược sĩ, Đại học Dược Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Kim Oanh và Nguyễn Thị Chanh (2020). Một số yếu tố liên quan đến tính tự chủ chuyên nghiệp trong thực hành điều dưỡng tại Bệnh viện Quân y 211 năm 2020 Tạp chí y dược lâm sàng 108, Hội nghị Khoa học Điều dưỡng năm 2020 100-109.

6. Nguyễn Thanh Vân (2013). Đánh giá kiến thức phòng và cấp cứu sốc phản vệ của điều dưỡng Bệnh viện Bắc Thăng Long năm 2013. Hội nghị khoa học quốc tế điều dưỡng, Tr 22 – 27.

7. Soar J. et al (2008). Emergency treatment of anaphylactic reactions--guidelines for healthcare providers. Resuscitation, 77 (2), 157-169.

8. Joanna Lange. et al (2020). Nursing and emergency medical rescue stu-dents’ knowledge and perception of anaphylaxis: a cross-sectional study. Journal of Public Health, Nursing and Medical Rescue, 1,

 


Tin mới