Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ: Nghiên cứu tại Bệnh viện Vinmec Times City năm 2025
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ và phân tích các yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City năm 2025.
Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2025 với 107 điều dưỡng tham gia trả lời bộ câu hỏi đánh giá kiến thức và sự tự chủ trong phòng, chống phản vệ. Dữ liệu được phân tích bằng SPSS 19.0.
Kết quả: 76,6% điều dưỡng đạt mức kiến thức chung về phản vệ; 57% đạt mức tự chủ chung trong xử trí các tình huống phản vệ. Tỷ lệ điều dưỡng đã được tập huấn trong vòng 1 năm có kiến thức cao hơn rõ rệt so với nhóm chưa tập huấn gần đây (92,7% so với 66,7%; p<0,01). Điều dưỡng có kiến thức chưa đạt có xu hướng tự chủ thấp hơn đáng kể trong xử trí phản vệ (POR = 5,24; 95% CI: 1,95–14,01; p<0,05).
Kết luận: Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ còn chưa đồng đều. Cần tăng cường tập huấn chuyên sâu để nâng cao năng lực thực hành
Từ khoá: kiến thức, xử trí phản vệ, tự chủ, điều dưỡng.
ABSTRACT
Objective: To describe nurses’ knowledge and autonomy in managing anaphylaxis and analyze associated factors at Vinmec Times City International Hospital in 2025.
Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted from February to April 2025, involving 107 nurses who completed a structured questionnaire assessing knowledge and autonomy in anaphylaxis management. Data were analyzed using SPSS 19.0.
Results: 76.6% of nurses demonstrated adequate knowledge of anaphylaxis, and 57% reported overall autonomy in managing anaphylactic cases. Nurses who received training within the past year had significantly better knowledge (92.7%) compared to those who had not (66.7%; p<0.01). Nurses with inadequate knowledge were more likely to lack autonomy in clinical situations (POR = 5.24; 95% CI: 1.95–14.01; p<0.05).
Conclusions: Nurses’ knowledge and autonomy in managing anaphylaxis were variable. Enhanced training programs are needed to improve clinical readiness.
Keywords: knowledge, management of anaphylaxis, autonomy, nurses
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Phản vệ là một phản ứng dị ứng cấp tính xảy ra khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên, có thể biểu hiện qua nhiều triệu chứng lâm sàng khác nhau và trong một số trường hợp nghiêm trọng, có thể dẫn đến tử vong [1], [7]. Nghiên cứu của Lê Thị Thùy Linh phân tích các trường hợp phản vệ được ghi nhận trong báo cáo phản ứng có hại của thuốc (ADR) tại Việt Nam giai đoạn 2010–2013 cho thấy, phản vệ chiếm từ 8,9% đến 10,9% tổng số phản ứng bất lợi liên quan đến thuốc [4].
Điều dưỡng viên giữ vai trò then chốt trong phát hiện sớm và xử trí kịp thời các ca phản vệ thông qua các nhiệm vụ như tiếp đón ban đầu, chăm sóc người bệnh, hướng dẫn sử dụng thuốc và thực hiện các kỹ thuật tiêm truyền [2]. Trong các tình huống phản vệ diễn ra đột ngột, điều dưỡng có thể thực hiện xử trí ban đầu với các thuốc cấp cứu có sẵn mà không cần chờ chỉ định từ bác sĩ, nhằm hạn chế tối đa các nguy cơ ảnh hưởng đến tính mạng người bệnh.
Do đó, kiến thức vững chắc về phản vệ và khả năng tự chủ trong thực hành lâm sàng là điều kiện tiên quyết giúp điều dưỡng nhận diện nhanh chóng và đưa ra quyết định xử trí hiệu quả trong tình huống khẩn cấp. Trên cơ sở đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với hai mục tiêu: (i) Mô tả thực trạng kiến thức và sự tự chủ trong phòng, chống phản vệ của điều dưỡng tại Bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vinmec Times City năm 2025; (ii) Phân tích một số yếu tố liên quan đến kiến thức và sự tự chủ trong phòng, chống phản vệ của điều dưỡng tại cơ sở nghiên cứu.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Điều dưỡng lâm sàng đang công tác tại bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vimec Times City.
- Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện từ tháng 2 đến tháng 4 năm 2025 tại Bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vimec Times City – Hà Nội
- Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang.
- Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Áp dụng phương pháp chọn toàn bộ. 107 điều dưỡng thực hiện các nhiệm vụ chăm sóc trực tiếp bệnh nhân tại các khoa lâm sàng tại bệnh viện Đa Khoa Quốc Tế Vimec Times City được chọn vào nghiên cứu.
- Biến số nghiên cứu
Phần I: Biến số về thông tin cá nhân và vị trí việc làm của đối tượng nghiên cứu: Giới, tuổi, năm công tác, vị trí công việc của điều dưỡng viên
Phần II: Biến số về kiến thức phòng, chống phản vệ bao gồm 23 câu hỏi chia thành 4 nhóm nhỏ: “Khái niệm và nguyên nhân phản vệ, nhóm kiến thức về chẩn đoán phản vệ, nhóm kiến thức về xử trí phản vệ, nhóm kiến thức về dự phòng phản vệ”.
Phần III: Biến số về sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ bao gồm 3 câu hỏi đánh giá các khía cạnh tự chủ của điều dưỡng viên: Sự tự chủ trong tiếp cận bệnh nhân; Sự tự chủ trong xử trí ban đầu; Sự tự chủ trong trường hợp ca lâm sàng khó. Sự tự chủ chung đạt được khi điều dưỡng có thể tự chủ trong cả 3 tính huống trong phòng và xử trí phản vệ.
- Kỹ thuật, công cụ và quy trình thu thập số liệu
Bộ câu hỏi phỏng vấn được soạn sẵn dựa trên tham khảo một số nghiên cứu trước đây đã triển khai về đánh giá kiến thức về phòng, chống phản vệ của Nguyễn Thanh Vân [6] và sự tự chủ trong thực hành lâm sàng của Nguyễn Thị Kim Oanh và Nguyễn Thị Chanh [5]. Bộ câu hỏi được điều chỉnh nhằm đánh giá nâng cao và chuyên sâu hơn về kiến thức về phòng, chống phản vệ và chuyên biệt cho sự tự chủ của điều dưỡng viên trong xử trí phản vệ. Kiến thức chung về phòng, chống phản vệ được đánh giá ở mức đạt khi đối tượng nghiên cứu (ĐTNC) trả lời đúng trên 55% số câu hỏi.
- Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu được nhập với Exel 2016 và xử lý với phần mềm thống kê SPSS 19.0. Các Biến số định định tính được thống kê mô tả tần số và tỷ lệ phần trăm. Sự khác biệt được xem xét qua test thống kê Chi bình phương.
- Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả, tuân thủ các quy đinh trong nghiên cứu y sinh học.
- KẾT QUẢ
Bảng 3.1. Đặc điểm của cá nhân, công việc và tình trạng tập huấn của ĐTNC
|
Đặc điểm
|
Số lượng |
Tỷ lệ (%) |
|
|
Nhóm tuổi (Mean ± SD) |
18-30 |
32 |
29,9 |
|
31-60 |
75 |
70,1 |
|
|
Giới tính |
Nam |
26 |
24,3 |
|
Nữ |
81 |
75,5 |
|
|
Trình độ chuyên môn |
Cao đẳng |
19 |
17,8 |
|
Đại học |
75 |
70,1 |
|
|
Sau đại học |
13 |
12,1 |
|
|
Vị trí công việc |
Chăm sóc trực tiếp bệnh nhân |
87 |
81,3 |
|
Công việc hành chính/khác |
20 |
18,7 |
|
|
Tình trạng tập huấn về phản vệ |
Đã được tập huấn trong vòng 1 năm |
41 |
38,3 |
|
Khác |
66 |
61,7 |
|
Bảng 1 cho thấy các đặc điểm cá nhân và vị trí việc làm của ĐTNC. Kết quả cho thấy nhóm tuổi >30 chiếm đa số với 70,1% cao hơn nhóm tuổi 18-30 với 29,9%. Tỷ lệ nữ giới chiếm đa số với 75,5% trong khi đó 24,3% là điều dưỡng nam. Đa số điều dưỡng có trình độ đại học chiếm 70,1%, nhóm điều dưỡng có trình độ cao đẳng chiếm 17,8% và 12,1% có trình độ sau đại học. Có 81,3% điều dưỡng có nhiệm vụ chính là chăm sóc trực tiếp bệnh nhân tại các khoa lâm sàng, trong khi đó 12,1% có công việc chính là hành chính hoặc không chăm sóc trực tiếp bệnh nhân. Có 38,3% ĐTNC cho biết đã được tập huấn về sốc phản vệ trong vòng 1 năm gần nhất.
Bảng 3.2. Kiến thức của ĐTNC về phòng, chống phản vệ
|
Nội dung |
Đạt |
Không đạt |
|
N (%) |
N (%) |
|
|
Kiến thức về khái niệm phản vệ |
42 (39,3) |
65 (60,7) |
|
Kiến thức về chẩn đoán phản vệ |
103 (96,3) |
4 (3,7) |
|
Kiến thức về xử trí phản vệ |
80 (74,8) |
27 (25,2) |
|
Kiến thức về dự phòng phản vệ |
80 (74,8) |
27 (25,2) |
|
Kiến thức chung |
82 (76,6) |
25 (23,4) |
Bảng 2 cho thấy tỷ lệ ĐTNC có kiến thức về phòng, chống phản vệ đạt 76,6% trong đó thấp nhất là nhóm kiến thức liên quan đến khái niệm về phản vệ với tỷ lệ đạt chỉ chiếm 39,3%, cao nhất là nhóm kiến thức về chẩn đoán phản vệ với mức điều dưỡng có kiến thức ở mức đạt chiếm 96,3%. Nhóm kiến thức về xử trí và dự phòng phản vệ đều có mức đạt là 74,8%.
Bảng 3.3. Sự tự chủ của ĐTNC trong xử trí phản vệ
|
Câu hỏi |
Đạt |
Không đạt |
|
N (%) |
N (%) |
|
|
Sự tự chủ trong tiếp cận bệnh nhân |
102 (95,3) |
5 (4,7) |
|
Sự tự chủ trong xử trí ban đầu |
100 (93,5) |
7 (6,5) |
|
Sự tự chủ trong trường hợp ca lâm sàng khó |
67 (62,6) |
40 (37,4) |
|
Sự tự chủ chung (Sự tự chủ trong cả 3 tình huống) |
61 (57,0) |
46 (43,0) |
Bảng 3 cho thấy đa số điều dưỡng đều có tính chủ động trong xử trí phản vệ, trong đó tỷ lệ cao nhất là sự tự chủ khi tiếp cận bệnh nhân với tỷ lệ đạt ở mức 95,3%, sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí ban đầu đạt mức 93,5% và thấp nhất là sự tự chủ trong các ca lâm sàng khó với chỉ 62,6% điều dưỡng cho biết có thể tự chủ kiểm soát trong các ca lâm sàng khó. Có 57,0 điều dưỡng đạt mức tự chủ trong cả 3 tình huống xử trí phản vệ.
Bảng 3.4. Mối liên quan giữa các đặc điểm cá nhân cá nhân, công việc, tình trạng tập huấn với kiến thức chung về phòng, chống phản vệ của ĐTNC
|
Yếu tố liên quan |
Kiến thức của ĐTNC |
POR (95%CI) |
p |
||
|
Không đạt N (%) |
Đạt N (%) |
||||
|
Nhóm tuổi |
18-30 |
6 (18,8) |
26 (81,3) |
0,7 (0,24-1,90) |
0,32 |
|
31-60 |
19 (25,3) |
56 (74,7) |
|||
|
Giới tính |
Nam |
6 (23,1) |
26 (76,9) |
0,97 (0,34-2,79) |
0,6 |
|
Nữ |
19 (23,5) |
62 (76,5) |
|||
|
Trình độ chuyên môn |
Cao đẳng |
5 (26,3) |
14 (73,7) |
1,21 (0,39-3,78) |
0,47 |
|
Đại học |
20 (22,7) |
68 (77,3) |
|||
|
Vị trí công việc |
Chăm sóc trực tiếp |
18 (20,7) |
69 (79,3) |
0,48 (0,17-1,39) |
0,14 |
|
Khác |
7 (35,0) |
13 (65,0) |
|||
|
Đào tạo liên tục |
Được tập huấn trong năm |
3 (7,3) |
38 (92,7) |
0,16 (0,04-0,57) |
0,01 |
|
Không |
22 (33,3) |
44 (66,7) |
|||
Test: Chi bình phương
Nhận xét: Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn và vị trí công việc với kiến thức chung về phòng chống phản vệ của điều dưỡng viên. Nhóm điều dưỡng đã được tập huấn trong vòng 1 năm có kiến thức tốt hơn so với nhóm không được tập huấn trong 1 năm gần nhất (92,7% so với 66,7%; p<0,01), tuy nhiên do tần số mong đợi thấp, dữ liệu chưa đủ lớn để khẳng định có ý nghĩa về mặt thống kê.
Bảng 3.5. Liên quan giữa các đặc điểm với sự tự chủ trong xử trí phản vệ của ĐTNC
|
Yếu tố liên quan |
Sự tự chủ |
POR (95%CI) |
p |
||
|
Tự chủ thấp N (%) |
Tự chủ cao N (%) |
||||
|
Nhóm tuổi |
18-30 |
14 (43,8) |
18 (56,3) |
1,04 (0,45-2,41) |
0,54 |
|
31-60 |
32 (42,7) |
43 (57,3) |
|||
|
Giới tính |
Nam |
11 (42,3) |
15 (57,7) |
0,96 (0,39-2,36) |
0,56 |
|
Nữ |
35 (43,2) |
46 (56,8) |
|||
|
Trình độ chuyên môn |
Cao đẳng |
5 (26,3) |
14 (73,7) |
0,41(0,14-1,23) |
0,85 |
|
Đại học |
41 (46,6) |
47 (53,4) |
|||
|
Vị trí công việc |
Chăm sóc trực tiếp |
40 (46,0) |
47 (54,0) |
1,99 (0,70-5,65) |
0,15 |
|
Khác |
6 (30,0) |
14 (70,7) |
|||
|
Đào tạo liên tục |
Được tập huấn trong năm |
15 (36,6) |
26 (63,4) |
0,65 (0,29-1,45) |
0,20 |
|
Không |
31 (47,0) |
35 (63,0) |
|||
|
Kiến thức chung |
Không đạt |
18 (72,0) |
7 (28,0) |
5,24 (1,95-14,01) |
0,00 |
|
Đạt |
27 (32,9) |
55 (67,1) |
|||
Test: Chi bình phương
Nhận xét: Không có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tuổi, giới tính, trình độ chuyên môn và vị trí công việc, và tình trạng tập huấn với sự tự chủ trong xử trí phản vệ của điều dưỡng viên. Tuy nhiên có mối liên quan giữa kiến thức chung với sự tự chủ trong xử trí phản vệ của điều dưỡng, cụ thể điều dưỡng có kiến thức chung về phòng, chống phản vệ kém có sự tự chủ thấp hơn trong các tình huống xử trí phản vệ (POR=5,24; 95% CI:1,95-14,01; p<0,05)
- BÀN LUẬN
Nghiên cứu này xây dựng bộ câu hỏi về phòng, chống phản vệ dựa trên sự tham khảo một số nghiên cứu khác đã tiến hành cùng chủ đề và thông tư 51/2017/TT-BYT về hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ [1]. Tỷ lệ đối tượng nghiên cứu có kiến thức về phòng, chống phản vệ trong nghiên cứu này ở mức 76,6% cao hơn so với một số nghiên cứu đã được tiến hành trước đây. Nghiên cứu của Nghiên cứu của Joanna Lange và cộng sự tại Ba Lan năm 2020 về kiến thức phòng, xử trí phản vệ trên 2 nhóm điều dưỡng viên và nhân viên cấp cứu cho thấy tỷ lệ điều dưỡng viên có kiến thức tốt về phản vệ là 72% [8]. Nghiên cứu của Nguyễn Hải Lâm tại Nam Định cho thấy rằng tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức chung về phòng, chống phản vệ ở mức 68,6% [3]. Tuy nhiên sự hiểu biết của điều dưỡng viên không đồng đều: kiến thức của ĐTNC về khái niệm phản vệ ở mức đạt thấp, trong khi đó điều dưỡng viên lại có kiến thức khá tốt về chẩn đoán phản vệ. Điều này có thể là do quá trình đào tạo trước đây tập trung nhiều về các phần trọng tâm nhằm giúp điều dưỡng nhận biết và xử trí phản vệ trên thực tế, tuy nhiên đây cũng là gợi ý để xây dựng các chương trình đào tạo trong tương lai tốt hơn nhằm mang lại kiến thức toàn diện về phòng, chống phản vệ cho điều dưỡng viên.
Trong nhiều tình huống lâm sàng, điều dưỡng viên là người đầu tiên tiếp cận và xử trí các tình huống phản vệ. Chính vì vậy sự tự chủ của điều dưỡng viên rất quan trọng giúp người bệnh tận dụng được khoảng thời gian vàng, nhất là trong tình huống sốc phản vệ nhằm tránh nguy cơ tử vong. Nghiên cứu cho thấy rằng điều dưỡng viên có thể tự chủ tốt trong các tình huống tiếp cận, nhận định bệnh nhân và xử trí ban đầu, tuy nhiên sự tự chủ giảm tương đối ở tình huống các ca lâm sàng khó. Điều này dễ hiểu trong bối cảnh tất cả các tình huống lâm sàng chứ không chỉ xét riêng các tình huống phản vệ.
Nghiên cứu này không cho thấy tương quan giữa các đặc điểm cá nhân như tuổi, giới tính, trình độ học vấn, khoa công tác với kiến thức chung về dự phòng và xử trí phản vệ. Trong nghiên cứu của Nguyễn Hải Lâm tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định cho thấy rằng điều dưỡng có trình độ đại học và sau đại học có kiến thức tốt hơn về phòng, chống phản vệ so với nhóm trung cấp/cao đẳng [3]. Sự khác biệt này có thể là do tiêu chuẩn lựa chọn nhân viên ở các bệnh viện khác nhau. Tuy nhiên nghiên cứu này cho thấy rằng các điều dưỡng được tập huấn về phản vệ trong vòng 1 năm có kiến thức ở mức đạt cao hơn so với nhóm điều dưỡng không được tập huấn. Điều này gợi ý rằng việc tập huấn nâng cao năng lực trong phòng, chống phản vệ nên được diễn ra thường xuyên hơn. Nghiên cứu cũng cho thấy có mối quan hệ giữa kiến thức chung về phòng, chống phản vệ với sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí các tình huống phản vệ trong đó nhóm điều dưỡng có kiến thức tốt có xu hướng tự chủ hơn trong các tình huống phản vệ trên lâm sàng. Trong nghiên cứu về sự tự chủ trong thực hành của điều dưỡng viên tại bệnh viện Quân y 211 năm 2020 của Nguyễn Thị Kim Oanh và Nguyễn Thị Chanh cũng cho thấy khía cạnh tương tự khi những điều dưỡng có môi trường thực hành lâm sàng và kiến thức tốt có xu hướng tự chủ cao hơn [5]. Điều này củng cố về sự cần thiết của quá trình đào tạo nâng cao kiến thức cho điều dưỡng viên nhằm tăng sự tự chủ trong các tình huống xử trí phản vệ trên lâm sàng.
- KẾT LUẬN
Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt yêu cầu về phòng, chống phản vệ là 76,6%, trong khi mức độ tự chủ toàn diện trong xử trí phản vệ chỉ đạt 57%. Có mối liên quan chặt chẽ giữa kiến thức và sự tự chủ trong xử trí phản vệ. Điều dưỡng được tập huấn trong vòng 1 năm có kiến thức và năng lực cao hơn rõ rệt. Kết quả nhấn mạnh sự cần thiết của các chương trình đào tạo và tập huấn định kỳ, nhằm nâng cao năng lực chuyên môn và sự chủ động của điều dưỡng trong các tình huống cấp cứu phản vệ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2017). Thông tư số:51/2017/TT-BYT về "Hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ".
Tin mới
-
Năm 2025, lĩnh vực dược và mỹ phẩm ghi nhận bước tiến mạnh mẽ trong cải cách hành...26/12/2025 20:20
-
Ống truyền hóa chất bị đứt âm thầm trôi vào tim
Tưởng đã khép lại hành trình điều trị ung thư, nữ bệnh nhân 48 tuổi không ngờ một...26/12/2025 20:16 -
48 giờ sinh tử của bé gái 2 tuổi với khối u khổng lồ chèn ép đường thở
Chỉ trong vòng 48 giờ, khối u bạch huyết vùng cổ của bé gái 2 tuổi bất ngờ...26/12/2025 20:12 -
TP.HCM “đưa trạm y tế về với dân”: Bước tái cấu trúc lớn của y tế cơ sở từ năm 2026
Từ ngày 1/1/2026, TP.HCM sẽ sắp xếp lại toàn bộ 168 trạm y tế, chuyển về trực thuộc...26/12/2025 19:00 -
Truyền dịch “giải rượu” tại nhà, nam thanh niên 26 tuổi rơi vào hôn mê nguy kịch
Sau cuộc nhậu kéo dài, một nam thanh niên ở Điện Biên tự ý truyền dịch tại nhà...26/12/2025 18:25 -
Vết xước nhỏ, hậu quả lớn: Nhiều ca uốn ván nguy kịch vì chủ quan
Chỉ từ những vết xước tưởng như vô hại ở chân, bong móng hay dẫm phải đinh, nhiều...26/12/2025 16:51 -
Đề xuất bệnh viện y học cổ truyền được khám chữa bệnh từ xa: Mở rộng tiếp cận chăm sóc sức khỏe cho người dân
Trong nỗ lực hiện đại hóa hệ thống y tế và đưa dịch vụ chăm sóc sức khỏe...26/12/2025 16:48 -
Bệnh viện Chấn thương Chỉnh hình Nghệ An – Điểm tựa vững chắc trong điều trị gãy cổ xương đùi cho người cao tuổi
Với đội ngũ chuyên gia giàu kinh nghiệm, quy trình điều trị tối ưu và phục hồi chức...26/12/2025 15:16 -
Lập 4 đoàn kiểm tra an toàn thực phẩm Tết Bính Ngọ tại 8 tỉnh, thành
Nhằm kiểm soát chặt nguy cơ mất an toàn thực phẩm dịp Tết Nguyên đán và mùa lễ...26/12/2025 15:18 -
Thứ trưởng Thường trực Bộ Y tế Vũ Mạnh Hà: Kiên quyết hoàn thiện chỉ tiêu cải cách thủ tục hành chính, tiết kiệm cho người dân và nâng cao minh bạch quản lý
Khẳng định cải cách thủ tục hành chính là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt của ngành y...26/12/2025 14:45 -
Hải Phòng cho phép hợp nhất Hội Điều dưỡng tỉnh Hải Dương và Hội Điều dưỡng Hải Phòng
UBND TP Hải Phòng vừa ban hành Quyết định cho phép hợp nhất Hội Điều dưỡng tỉnh Hải...26/12/2025 14:03 -
Hội Điều dưỡng tỉnh Tuyên Quang tổ chức Đại hội lần thứ I, nhiệm kỳ 2025 – 2030
Ngày 20/12/2025, Hội Điều dưỡng tỉnh Tuyên Quang đã long trọng tổ chức Đại hội lần thứ I,...26/12/2025 14:08 -
Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ: Nghiên cứu tại Bệnh viện Vinmec Times City năm 2025
NCKH: Kiến thức và sự tự chủ của điều dưỡng trong xử trí phản vệ: Nghiên cứu tại...26/12/2025 14:34 -
Sự tự tin của điều dưỡng khi áp dụng thang điểm cảnh báo sớm (NEWS2) trong môi trường thực hành lâm sàng
NCKH: Sự tự tin của điều dưỡng khi áp dụng thang điểm Cảnh báo sớm (NEWS2) trong môi...26/12/2025 14:53














