Hỗ trợ xã hội và lo lắng của người bệnh trước Phẫu thuật chương trình tại Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

Bài nghiên cứu Hỗ trợ xã hội và lo lắng của người bệnh trước Phẫu thuật chương trình tại Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Nguyễn Tri Phương

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá mức độ lo lắng và mức độ hỗ trợ xã hội của người bệnh trước phẫu thuật chương trình tại Khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương và xác định mối tương quan giữa lo lắng và mức độ hỗ trợ xã hội của người bệnh.

Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện gồm 60 người bệnh chuẩn bị phẫu thuật chương trình trong thời gian từ 04/9 đến 31/10/2024. Dữ liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi có độ tin cậy kiểm định, xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0, sử dụng thống kê mô tả và kiểm định Spearman.

Kết quả: 61,7% người bệnh có mức độ lo lắng nặng trước phẫu thuật. Mức hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế được đánh giá cao (63,3%), trong khi hỗ trợ từ gia đình ở mức trung bình (45%). Có hệ số tương quan dương có ý nghĩa thống kê (p<0,05) nhưng rất thấp (0,08) giữa hỗ trợ xã hội từ gia đình và mức độ lo lắng. Có sự tương quan nghịch chiều ở mức trung bình yếu nhưng có ý nghĩa thống kê giữa hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế và lo lắng của người bệnh (p < 0,05).

Kết luận: Hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế đóng vai trò quan trọng trong việc giảm lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình. Cần tăng cường các biện pháp hỗ trợ tâm lý từ phía nhân viên y tế để nâng cao chất lượng chăm sóc.

Từ khóa: Lo lắng, Phẫu thuật chương trình, Hỗ trợ xã hội, Ngoại Thần kinh.

ABSTRACT

Objective: to describe the levels of preoperative anxiety and perceived social support among patients undergoing elective neurosurgery at Nguyen Tri Phuong Hospital and to identify the correlation between these factors.

Methods: A cross-sectional study design was employed, using a convenient random sample of 60 patients scheduled for elective surgery from September 4 to October 31, 2024. Data were collected using a validated questionnaire and analyzed with SPSS version 20.0, utilizing descriptive statistics and the Spearman correlation test.

Results: 61.7% of patients experienced severe preoperative anxiety. Social support from healthcare staff was rated highly (63.3%), whereas family support was at a moderate level (45%). There was a statistically significant but very weak positive correlation (r = 0.08, p < 0.05) between family support and anxiety. A statistically significant weak negative correlation was found between social support from healthcare staff and patient anxiety (p < 0.05).

Conclusions: Social support from healthcare professionals plays a crucial role in reducing patient anxiety before elective surgery. Psychological support measures from healthcare staff should be strengthened to enhance the quality of care. 

Key words: Anxiety, Elective surgery, Social support, Neurosurgery 

 1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Phẫu thuật thần kinh hay chuyên khoa Ngoại Thần kinh là một chuyên ngành y khoa về việc ngăn chặn, chẩn đoán, chữa trị bằng phẫu thuật và phục hồi các rối loạn mà tác động đến bất cứ phần nào của cơ thể bao gồm não, tủy sống, và hệ thống mạch não ngoài sọ [1,2]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), khoảng 266 – 360 triệu ca phẫu thuật xảy ra trên khắp thế giới mỗi năm. Nghiên cứu chỉ ra rằng khoảng 75% lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình [12]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Nguyễn Thị Phương và cộng sự (2023) tỷ lệ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình chiếm 68% [3]. Trong tạp chí Y Dược lâm sàng 108 năm 2024 có đề tài đánh giá lo lắng trước phẫu thuật chương trình của người bệnh là 61,9% [4].

Lo lắng trước phẫu thuật là một loại trạng thái lo lắng liên quan đến cuộc phẫu thuật sắp xảy ra, ngày càng có nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng lo lắng trước phẫu thuật ảnh hưởng đến kết quả điều trị hậu phẫu, bao gồm khả năng lành vết thương của cơ thể, nhu cầu sử dụng thuốc giảm đau sau phẫu thuật, tăng nguy cơ nhiễm trùng, kéo dài thời gian nằm viện và tăng chi phí điều trị [7,8,9].  Nghiên cứu năm 2021 cho thấy tỷ lệ  lo lắng của NB trước phẫu thuật chương trình (PTCT) về thần kinh dao động từ 17% đến 89% [3].  Kết quả nghiên cứu của Bệnh viện Đa khoa Hà Đông (2023) cho thấy tỷ lệ người bệnh lo lắng trước phẫu thuật chương trình về thần kinh chiếm 67,4% [3]. Theo nghiên cứu của Kim Xuân Loan và cộng sự (2024) tỷ lệ NB biểu hiện lo lắng trước phẫu thuật chương trình là 61,9% [1].

Hỗ trợ xã hội (HTXH) đầy đủ giúp giảm tỷ lệ lo lắng ở người bệnh trước phẫu thuật chương trình. Khi sự hỗ trợ xã hội cao lên, lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật giảm đi [8]. Ngoài ra người bệnh cảm thấy giảm bớt lo lắng trước phẫu thuật hơn khi được cung cấp các thông tin liên quan phẫu thuật từ nhóm phẫu thuật trước phẫu thuật chương trình [7].  Nghiên cứu tại bệnh viện Việt Đức cho thấy sự hỗ trợ xã hội về tâm lý từ nhân viên y tế (NVYT) có thể giúp giảm mức độ lo lắng trước phẫu thuật chương trình từ 20% đến 25% [4].  Một nghiên cứu khác tại bệnh viện Chợ Rẫy (2024) chỉ ra rằng sự hỗ trợ xã hội từ gia đình làm giảm lo lắng của NB trước phẫu thuật chương trình từ 25% đến 35% [1].

Chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Hỗ trợ xã hội và lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình tại khoa Ngoại Thần kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương” nhằm mục tiêu: (i) Mô tả mức độ lo lắng của của người bệnh trước phẫu thuật chương trình tại khoa Ngoại Thần kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương; (ii) Xác định yếu tố liên quan giữa hỗ trợ xã hội và lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình tại khoa Ngoại Thần Kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu

Nghiên cứu cắt ngang

Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thời gian từ 04/9/2024 đến 31/10/2024.

Địa điểm tại khoa Ngoại Thần Kinh BV Nguyễn Tri Phương.

Đối tượng nghiên cứu

Tất cả người bệnh trước phẫu thuật chương trình tại khoa Ngoại Thần Kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương.

 Cỡ mẫu

Tất cả người bệnh trước phẫu thuật chương trình tại khoa Ngoại Thần Kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương phù hợp tiêu chí đưa vào trong thời gian nghiên cứu.

Tiêu chí chọn mẫu

Tiêu chí đưa vào

Tất cả người bệnh phẫu thuật chương trình tại khoa Ngoại Thần kinh bệnh viện Nguyễn Tri Phương.

Người bệnh đồng ý tham gia nghiên cứu.

Tiêu chí loại ra

Người bệnh không hoàn thành đầy đủ bộ câu hỏi.

Người bệnh có điểm glassgow dưới 14 điểm đối với phẫu thuật sọ não.

Phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện.

Công cụ thu thập số liệu

Bộ câu hỏi (BCH), gồm 3 phần

Phần 1: Các thông tin chung nhằm khảo sát các đặc điểm nhân khẩu học của người bệnh, BCH gồm có 5 câu tìm hiểu về tuổi, giới tính, địa chỉ, trình độ học vấn, nghề nghiệp hiện tại.

Phần 2: BCH khảo sát lo lắng của NB trước phẫu thuật chương trình, BCH gồm có 7 câu được phát triển bởi Zigmond và Snaith (1983) bằng phiên bản tiếng Anh có Cronbachs alpha là 0,93 [14],  được Đỗ Cao Cường dịch sang Tiếng Việt có Cronbachs alpha là 0,81 [6].  NB trả lời các câu hỏi, điểm của từng người bệnh được tính theo thang điểm Likert số điểm tăng dần từ 0 đến 3 điểm theo mức độ biểu hiện lo lắng cao dần.

Số câu

Trả lời

Điểm

 

 

1, 2, 3,

5, 6, 7

Hầu như mọi lúc/ Nhiều, và rất lo sợ/ Rất nhiều/ Luôn luôn/ Rất thường xuyên

 

0

Thường xuyên/ Có, nhưng không quá lo sợ/ Nhiều

1

Thỉnh thoảng, lúc cảm thấy lúc không/ Có một chút, nhưng không ảnh hưởng gì/ Thỉnh thoảng/ Một chút

 

2

Hoàn toàn không/ Rất ít

3

 

4

Bất kỳ lúc nào

3

Thường xuyên

2

Thỉnh thoảng

1

Không thể

0

Bảng 1. Tính điểm lo lắng trước phẫu thuật chương trình

Dựa vào đó, mức độ lo lắng được chia theo thang điểm [14]

Không lo lắng (0 điểm)

Lo lắng nhẹ (0.01 – 1.01 điểm)

Lo lắng trung bình (1.02 – 2.02 điểm)

Lo lắng nặng (2.03 - 3 điểm).

Phần 3 của bộ câu hỏi Hỗ trợ xã hội (Social Support Questionnaire - SSQ) do Winefield và cộng sự (1992) xây dựng gồm 11 câu, đánh giá mức độ lo lắng và hỗ trợ xã hội từ gia đình, bạn bè (6 câu) và nhân viên y tế (5 câu), có hệ số Cronbach’s alpha là 0,89 [13].  Phiên bản tiếng Việt được Đỗ Cao Cường dịch và hiệu chỉnh với Cronbach’s alpha là 0,81 [6]. Người bệnh đánh giá mức độ hỗ trợ xã hội trên thang điểm Likert 4 mức độ: 1 = không bao giờ, 2 = thỉnh thoảng, 3 = thường xuyên, 4 = luôn luôn. Tổng điểm dao động từ 11 đến 44 điểm, trung bình từ 1 đến 4 điểm. Dựa trên điểm trung bình, mức độ hỗ trợ xã hội được phân loại như sau [13]: Thấp: 1,00 – 2,01 điểm, trung bình: 2,02 – 3,02 điểm, cao: 3,03 – 4,00 điểm.

Quy trình thu thập số liệu

1. Nghiên cứu viên (NCV) liên hệ điều dưỡng trưởng khoa Ngoại Thần kinh để nhận danh sách người bệnh phẫu thuật chương trình, đáp ứng tiêu chí nghiên cứu.

2. NCV tiếp cận người bệnh, giải thích mục tiêu, quy trình nghiên cứu và quyền từ chối tham gia. Nếu đồng ý, người bệnh ký phiếu chấp thuận tham gia.

3. NCV phát bộ câu hỏi, hướng dẫn cách điền, hỗ trợ giải đáp nếu cần. Thời gian hoàn thành từ 20–30 phút.

4. Sau khi hoàn tất, NCV kiểm tra tính đầy đủ và cảm ơn người bệnh.

Đạo đức nghiên cứu:

Bộ câu hỏi không thu thập tên người bệnh. Bảo mật thông tin và đảm bảo an toàn cho người tham gia. Tham gia là tự nguyện, có quyền không trả lời hoặc rút lui bất cứ lúc nào. Dữ liệu chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.

Xử lý và phân tích số liệu:
Dữ liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. Sử dụng thống kê mô tả (tần suất, tỷ lệ %) để phân tích đặc điểm mẫu nghiên cứu. Hệ số tương quan Spearman được dùng để đánh giá mối liên quan giữa mức độ lo lắng và hỗ trợ xã hội, với mức ý nghĩa thống kê p < 0,05 và độ tin cậy 95%. 

3. KẾT QUẢ

3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1 Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu (n= 60)

Đặc điểm

N

%

Tuổi: Mean: 57,2; SD: 15,8

 

 

Giới tính

Nữ

33

55

Nam

27

45

Địa chỉ

Tỉnh khác

32

53,3

TP. HCM

28

46,7

Học vấn

Tiểu học

23

38,3

Trung học cơ sở

13

21,7

Trung học phổ thông

13

21,7

Trung học chuyên nghiệp

1

1,7

Cao đẳng/đại học

8

13,3

Sau đại học

2

3,3

Nghề nghiệp

 

 

 

 

 

 

Công nhân viên chức

6

10,0

Nội trợ

15

25

Nghỉ hưu

13

21,7

Công nhân

9

15,0

Nông nhân

8

13,3

Kinh doanh

1

1,7

Khác

8

13,3

Bảng 3.1 cho thấy, độ tuổi trung bình của đối tượng nghiên cứu là 57,2 (±15,8), tỷ lệ nữ cao hơn nam và số người bệnh ở tỉnh khác chiếm tỷ lệ cao hơn 53,3%. Trong tổng số 60 người bệnh tham gia nghiên cứu, có 38,3% hoàn thành bậc tiểu học, 1,7% người bệnh tốt nghiệp trung cấp, nghề nghiệp nội trợ chiếm cao nhất 25%, thấp nhất là kinh doanh 1,7%.

3.2. Mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình

Bảng 3.2 Lo lắng trước phẫu thuật của người bệnh (n=60)

STT

Nội dung

 

  Độ lệch chuẩn

  Mức độ

 

1

Tôi cảm thấy căng thẳng

2,17

0,74

Nặng

2

Tôi thấy lo sợ rằng hình như sẽ có chuyện chẳng lành xảy ra

2,00

0,8

Nặng

3

Tôi lo nghĩ

2,08

0,79

Nặng

4

Tôi có thể ngồi yên và thư giãn

1,75

0,91

Nặng

5

Tôi có cảm giác lo sợ như nôn nao trong bụng

2.27

0,69

Nặng

6

Tôi thấy bồn chồn và không thể nằm yên

2,38

0,73

Nặng

7

Tôi đột nhiên thấy giật mình hoảng hốt

2,30

0,57

Nặng

 

Mức độ lo lắng chung

2,20

0,53

Nặng

                 

Bảng 3.2 cho thấy, mức độ lo lắng chung trước phẫu thuật chương trình của người bệnh là nặng (  = 2,20, ± 0,53). Trong đó, biểu hiện lo lắng nhiều nhất được ghi nhận là người bệnh thấy bồn chồn và không thể nằm yên (= 2,38, ± 0,73), người bệnh có thể ngồi yên và thư giãn biểu hiện ít nhất (=1,75, ±0,91).

Bảng 3.3 Mức độ lo lắng trước phẫu thuật chương trình của người bệnh (n=60)

Mức độ

Điểm lo lắng

Tần số (N)

Tỷ lê (%)

Không lo lắng

00

00

00

Lo lắng nhẹ

0,01-1,01

1

1,7

Lo lắng trung bình

1,02-2,02

22

36,6

Lo lắng nặng

2,03- 3

37

61,7

Bảng 3.3 cho thấy, trong số 60 người bệnh tham gia nghiên cứu, 37 người bệnh có mức độ lo lắng nặng trước phẫu thuật chương trình chiếm 61,7%. Mức độ lo lắng nhẹ có 1 người bệnh, chiếm 1,7%. 

3.3. Hỗ trợ xã hội của người bệnh trước phẫu thuật

Bảng 3.4 Điểm trung bình, độ lệch chuẩn về HTXH từ gia đình của NB (n=60)

STT

Biến số

 

Độ lệch chuẩn

1

Gia đình có thường xuyên thực sự lắng nghe khi ông/ bà muốn nói chuyện về các vấn đề liên quan đến lần phẫu thuật này

2,90

0,99

2

Gia đình có thường xuyên cố gắng để hiểu ông/ bà đang cảm nhận như thế nào trong lần phẫu thuật này

2,88

0,90

3

Gia đình có thường xuyên giúp ông/ bà cảm thấy được yêu thương và được tôn trọng

3,15

0,75

 

4

Gia đình có thường xuyên giúp ông/ bà một cách thiết thực, như là làm việc giúp ông/ bà vượt qua các khó khăn khác liên quan đến lần phẫu thuật này

3,12

0,82

 

5

Gia đình có thường xuyên đưa ra lời khuyên cho ông/ bà về các vấn đề mà ông/ bà gặp phải liên quan đến lần phẫu thuật này

3,02

0,79

6

Ông/bà có thể xem gia đình là tấm gương để vượt qua các khó khăn hay lo lắng gặp phải

2,92

0,87

 

Mức độ HTXH từ gia đình của NB

2,99

0,71

Bảng 3.4 cho thấy, HTXH của NB trước phẫu thuật chương trình cao nhất là gia đình thường xuyên giúp NB cảm thấy được yêu thương và được tôn trọng nặng ( = 3,15, ± 0,75). Trong đó, gia đình thường xuyên cố gắng để hiểu NB đang cảm nhận như thế nào trong lần phẫu thuật này là thấp nhất (= 2,88, ±0,90).

Bảng 3.5 Mức độ HTXH từ gia đình của đối tượng nghiên cứu (n=60)

Mức độ

Tần số (N)

%

Mức độ thấp

18

30

Mức độ trung bình

27

45

Mức độ cao

15

25

Bảng 3.5 cho thấy, trong số 60 người bệnh tham gia nghiên cứu, 27 người bệnh có mức độ HTXH trung bình từ gia đình chiếm 45%. Mức độ HTXH cao từ gia đình là 15 người, chiếm 25%.

Bảng 3.6 Điểm trung bình, độ lệch chuẩn về HTXH từ NVYT đối với NB (n=60)

STT

Biến số

 

SD

1

NVYT có thường xuyên thực sự lắng nghe ông/ bà nói về các vấn đề của mình

3,12

0,67

2

NVYT có thường xuyên cố gắng để hiểu ông/ bà cảm nhận thế nào về lần phẫu thuật này

3,25

0,63

3

NVYT có thường xuyên giúp ông/ bà một cách thiết thực, như là làm bớt đau, giảm các triệu chứng, hay giúp đỡ ông/ bà những vấn đề khác

3,20

0,58

4

NVYT có thường xuyên cho ông/ bà lời khuyên hay cung cấp những thông tin rõ ràng và có ích cho cuộc phẫu thuật

3,20

0,51

5

Ông/bà có thể xem NVYT như tấm gương giúp ông/bà vượt qua bệnh tật hay những khó khăn khác

3,08

0,74

 

Mức độ HTXH từ NVYT đối với NB

3,17

0,48

Bảng 3.6 cho thấy, hỗ trợ xã hội của nhân viên y tế đối với người bệnh trước phẫu thuật chương trình cao nhất là NVYT thường xuyên cố gắng để hiểu NB cảm nhận thế nào về lần phẫu thuật này ( = 3,25, ±0,63). Trong đó, người bệnh có thể xem NVYT như tấm gương giúp NB vượt qua bệnh tật hay những khó khăn khác là thấp nhất (= 3,08, ±0,74).

Bảng 3.7 Mức độ HTXH từ NVYT đối với NB (n=60)

Mức độ

Tần số (N)

Tỷ lệ (%)

Mức độ thấp

00

00

Mức độ trung bình

22

36,7

Mức độ cao

38

63,3

Bảng 3.7 cho thấy, trong số 60 NB tham gia nghiên cứu, 38 người bệnh có mức độ HTXH cao từ nhân viên y tế chiếm 63,3%. Mức độ HTXH trung bình  từ nhân viên y tế là 22 người, chiếm 36,7%.

3.4. Liên quan giữa HTXH và mức độ lo lắng của NB  trước PTCT

Bảng 3.8 Tương quan giữa hỗ trợ xã hội và mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình (n=60)

Biến số

Mức độ lo lắng

rho

p

Phép kiểm

HTXH từ gia đình của NB

0,08

0,544

Spearman

HTXH từ NVYT đối với NB

-0,39

0,02

Spearman

Bảng 3.8 trình bày kết quả phân tích tương quan giữa mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình với mức độ hỗ trợ xã hội từ hai nguồn: gia đình và nhân viên y tế, sử dụng hệ số tương quan Spearman (rho).

Có hệ số tương quan dương có ý nghĩa thống kê (p<0,05) nhưng rất thấp (0,08) giữa hỗ trợ xã hội từ gia đình và mức độ lo lắng.

Có sự tương quan nghịch chiều ở mức trung bình yếu nhưng có ý nghĩa thống kê giữa hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế và lo lắng của người bệnh (p < 0,05). Điều này có nghĩa là: Khi người bệnh cảm nhận được sự hỗ trợ nhiều hơn từ nhân viên y tế, thì mức độ lo lắng của họ có xu hướng giảm xuống.

4. BÀN LUẬN

Mức độ lo lắng trước phẫu thuật của NB

Kết quả nghiên cứu về mức độ lo lắng của NB trước phẫu thuật của chúng tôi như sau, 100% người bệnh được ghi nhận có lo lắng. Kết quả này so sánh với một số nghiên cứu trong và ngoài nước khá phù hợp, như trong nghiên cứu của Đỗ Cao Cường là 98,9% người bệnh [6]. Mức độ lo lắng trong kết quả nghiên cứu sợ đau sau phẫu thuật của Phạm Thị Hoàng Yến là 87,1%  [4].

Mức độ hỗ trợ xã hội của người bệnh

Kết quả nghiên cứu mức độ hỗ trợ xã hội chung từ nhân viên y tế ở mức cao, chiếm 63, 3%. Kết quả này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Kim Xuân Loan và cộng sự (2024) là 52,4% [1]. Điều này cho thấy việc hỗ trợ xã hội từ nhân viên đối với NB là hết sức cần thiết. Mức độ hỗ trợ xã hội chung từ gia đình ở mức trung bình, chiếm 45%. Kết quả này cao hơn với kết quả nghiên cứu của Kim Xuân Loan và cộng sự (2024) là 25% [1]. Đồng thời kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Bistara (2023) là 57,1 [5].

Liên quan giữa HTXH và mức độ lo lắng của NB trước PTCT

       Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy có mối tương quan dương có ý nghĩa thống kê (p<0,05) nhưng rất thấp (0,08) giữa hỗ trợ xã hội từ gia đình và mức độ lo lắng. và có mối tương quan nghịch chiều giữa mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình với hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế (rho= -0,39, p< 0,05), như vậy hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế tăng lên giúp người bệnh giảm lo lắng trước phẫu thuật chương trình. Tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Cao Cường, nghiên cứu của Jawaid tại Parkistan và nghiên cứu của Seifu tại Ethipia có mối tương quan nghịch chiều giữa mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình với hỗ trợ xã hội từ nhân viên y tế  [6,7,11].

5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Nghiên cứu cho thấy đa số người bệnh chuẩn bị phẫu thuật tại Khoa Ngoại Thần kinh, Bệnh viện Nguyễn Tri Phương có mức độ lo lắng cao, trong đó 61,7% có lo lắng nặng. Mặc dù hỗ trợ xã hội từ gia đình chủ yếu ở mức trung bình, hỗ trợ từ nhân viên y tế được đánh giá ở mức cao và có mối tương quan nghịch có ý nghĩa với mức độ lo lắng của người bệnh (rho = -0,39; p < 0,05). Điều này cho thấy vai trò quan trọng của nhân viên y tế trong việc giảm thiểu lo lắng trước phẫu thuật.

Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi khuyến nghị: (i) Tăng cường đào tạo kỹ năng giao tiếp và hỗ trợ tâm lý cho nhân viên y tế nhằm xây dựng mối quan hệ gần gũi, tin cậy với người bệnh; (ii) Đẩy mạnh hoạt động tư vấn – giáo dục sức khỏe, cung cấp thông tin rõ ràng và đầy đủ trước phẫu thuật để giúp người bệnh an tâm và hợp tác trong điều trị.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.    Kim Xuân Loan, Nguyễn Minh Tâm, 2024, Mối liên hệ giữa hỗ trợ xã hội và lo lắng trước phẫu thuật tại Bệnh viện Chợ Rẫy, Tạp chí Y học TP Hồ Chí Minh, số 28(1), tr. 102–109.

2.    Lê Thị Mai, Phạm Văn Toàn. 2021. Tác động của sự hỗ trợ từ nhân viên y tế đến tâm lý lo lắng trước phẫu thuật chương trình: Nghiên cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy. Tạp chí Khoa học và Công nghệ. 43(2):112–119.

3.    Nguyễn Thị Phương, Trần Văn Hùng, 2023, Khảo sát mức độ lo lắng của người bệnh trước phẫu thuật chương trình thần kinh tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông, Tạp chí Y học thực hành, số 3, tr. 54–65.

4.    Phạm Thị Hoàng Yến, 2023, Mức độ lo lắng và sợ đau trước phẫu thuật chương trình, Tạp chí Y học lâm sàng 108, số 7(4), tr. 95–100.

5.    Bistara DN, 2023, Family support and patient anxiety before surgery: a cross-sectional study, Asian Journal of Psychiatry, số 64, tr. 102837.

6.    Cuong Cao Do, 2023, Factors related to preoperative anxiety among patients undergoing abdominal surgery in Phu Tho Province General Hospital, Thai Pharmacy Health Science Journal, số 8(4), tr. 155–162.

7.    Jawaid M, Mushtaq A, Mukhtar S, Khan Z, 2007, Preoperative anxiety before elective surgery, Neurosciences (Riyadh), số 12(2), tr. 145–148.

8.    Kok XLF, Newton JT, Jones EM, Cunningham SJ, 2023, Social support and pre-operative anxiety in patients undergoing elective surgical procedures: a systematic review and meta-analysis, Journal of Health Psychology, số 28(4), tr. 309–327.

9.    Kumar A, Dubey PK, Ranjan A, 2019, Assessment of anxiety in surgical patients: an observational study, Anesthesia Essays and Researches, số 13(3), tr. 503–508.

10. Oteri V, Martinelli A, Crivellaro E, Gigli F, 2021, The impact of preoperative anxiety on patients undergoing brain surgery: a systematic review, Neurosurgical Review, số 44(6), tr. 3047–3057.

11. Seifu W, Molla A, Yimer H, 2022, Preoperative anxiety and associated factors among adult surgical patients in Ethiopia: a cross-sectional study, Annals of Medicine and Surgery, số 74, tr. 103255.

12. WHO Surgical Care Systems Strengthening: Developing National Surgical Plans — WHO, 2017.

13. Winefield HR, Winefield AH, Tiggemann M, 1992, Social support and psychological well-being in young adults: the multi-dimensional support scale, Journal of Personality Assessment, số 58(1), tr. 198–210.

14. Zigmond AS, Snaith RP, 1983, The hospital anxiety and depression scale, Acta Psychiatrica Scandinavica, số 67(6), tr. 361–370


Tin mới