Tác động của sự tin tưởng nhân viên y tế tới chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh ung thư gan điều trị nút mạch vi cầu tại Bệnh viện TWQĐ 108

Nghiên cứu: Tác động của sự tin tưởng nhân viên y tế tới chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh ung thư gan điều trị nút mạch vi cầu tại Bệnh viện TWQĐ 108

Tóm tắt  

Mục tiêu:

Đánh giá tác động của mức độ tin tưởng nhân viên y tế (TTNVYT) lên chất lượng cuộc sống (CLCS) và các yếu tố liên quan ở người bệnh ung thư gan (UTG) điều trị nút mạch vi cầu (TACE) tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 (TWQĐ 108).

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 132 người bệnh UTG, trên 18 tuổi, điều trị TACE. Sử dụng thang đo sức khỏe EQ-5D-5L và VAS phiên bản dành cho người Việt Nam và thang đo TTNVYT để thu thập số liệu.

Kết quả: Tuổi trung bình (61,02±11,33), nam giới chiếm 123/132(93,18%), giai đoạn BCLC trung gian cao nhất (50,76%), giai đoạn Child-Pugh A chiếm đa số (90,91%). Phản hồi của người bệnh ở thang đo TTNVYT đều ở mức độ đồng ý trở lên (mean > 3,41). Có tương quan thuận giữa TTNVYT với CLCS và VAS (p<0,05); Có liên quan giữa TTNVYT với tuổi và nghề nghiệp (p<0,05).

Kết luận: TTNVYT tốt hơn mang lại lợi ích cho CLCS của người bệnh UTG điều trị TACE tại Bệnh viện TWQĐ 108. Nhân viên y tế cần lưu ý TTNVYT liên quan với tuổi và nghề nghiệp của bệnh nhân UTG điều trị TACE để có biện pháp nâng cao sự TTNVYT.   

Từ khóa: Ung thư gan, chất lượng cuộc sống, tin tưởng nhân viên y tế, TACE.

 

Abstract 

Objective: Evulating the impact of trust in healthcare provider on the quality of life (QoL) and related factors in hepatocellular carcinoma (HCC) patients undergoing transarterial chemoembolization (TACE) treatment at 108 Military Central Hospital.

Subjects and methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 132 HCC patients over 18 years old, receiving TACE treatment. The EQ-5D-5L and VAS scales (Vietnamese versions), along with a trust in healthcare provider scale, were used for data collection.

Results: The mean age of participants was 61.02 ± 11.33; 123 out of 132 (93.18%) were male. The intermediate stage of the Barcelona Clinic Liver Cancer (BCLC) classification was the most common (50.76%), and Child-Pugh class A was the most prevalent (90.91%). Patients’ responses indicated a generally high level of agreement (mean > 3.41). A positive correlation was found between trust in healthcare provider and both QoL and VAS scores (p < 0.05). Trust in healthcare provider was also significantly associated with patients’ age and occupation (p < 0.05).

Conclusion: Higher levels of trust in healthcare provider are linked to better QoL in HCC patients undergoing TACE treatment at the 108 Military Central Hospital. Healthcare provider should be aware that trust in healthcare provider is influenced by both age and occupation, and should tailor their communication and care approaches accordingly.

Keywords: Hepatocellular carcinoma, quality of life, trust in health care provider, TACE.

 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Tin tưởng nhân viên y tế (TTNVYT) là nền tảng quan trọng trong mối quan hệ giữa người bệnh và cơ sở y tế. Niềm tin này không chỉ quyết định hiệu quả điều trị mà còn góp phần duy trì sự gắn kết lâu dài giữa bệnh nhân và hệ thống chăm sóc. Các nghiên cứu cho thấy trung thực, năng lực chuyên môn, giao tiếp hiệu quả, sự đồng cảm và tinh thần trách nhiệm là những yếu tố then chốt giúp củng cố lòng tin [7], [10]. Ngược lại, thiếu nguồn lực, quản lý kém hoặc các ưu đãi tài chính không phù hợp có thể làm suy giảm niềm tin và dẫn đến sự ngờ vực. TTNVYT đã được chứng minh có liên quan chặt chẽ với kết quả lâm sàng, khả năng tự quản lý bệnh và đặc biệt là chất lượng cuộc sống (CLCS), bao gồm cả thể chất lẫn tinh thần [3], [12].

Tại Việt Nam, ung thư gan là bệnh lý ác tính phổ biến, có tỷ lệ tử vong cao và đặt ra nhiều thách thức trong điều trị. Viện Điều trị các bệnh tiêu hoá, Bệnh viện TWQĐ 108 là cơ sở chuyên khoa đầu ngành, với nhiều năm kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh lý gan mật. Đặc biệt, phương pháp nút mạch vi cầu và đang được triển khai rộng rãi, mang lại nhiều kết quả tích cực trong điều trị ung thư biểu mô tế bào gan. Đây là bối cảnh thuận lợi tạo điều kiện cho các nghiên cứu chuyên sâu về mối liên quan giữa TTNVYT và CLCS ở nhóm bệnh nhân đặc thù này.

Xuất phát từ những cơ sở trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: đánh giá tác động của TTNVYT đến CLCS của người bệnh ung thư gan điều trị TACE tại Bệnh viện TWQĐ 108, đồng thời xác định các yếu tố liên quan đến TTNVYT nhằm góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc và điều trị.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP

 2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm

Người bệnh trên 18 tuổi được chẩn đoán xác định ung thư gan, điều trị nút mạch vi cầu tại Khoa Điều trị Gan - mật - tụy, Viện điều trị các bệnh tiêu hóa, Bệnh viện TWQĐ 108, thời gian từ tháng 1 đến tháng 7 năm 2024. Loại trừ người bệnh không đồng ý tham gia, bỏ nghiên cứu, hoặc không trả lời đầy đủ câu hỏi trong bản phỏng vấn.

 2.2. Phương pháp

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang.

 

 

 

 

Cỡ mẫu:                                               

 

Với α= 0,05 thì Z(1-α/2)= 1,96

σ là độ lệch chuẩn ước lượng trong dân số, theo nghiên cứu của Maly Rose C (2015) và cộng sự [8], CLCS trung bình là 46,4 ± 12,6. Nên chọn σ là: 12,6.

d là sai số ước lượng: chọn d= 3, dự trù mất mẫu 5%

Đưa vào công thức ta có cỡ mẫu tối thiểu n= 75.

Phương pháp chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn mẫu phi xác suất (thuận tiện), lấy vào tất cả đối tượng đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ trong thời gian nghiên cứu. Tổng số 132 người bệnh UTG đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu.  

Thu thập số liệu: Trước khi thu thập số liệu, nhóm nghiên cứu tiến hành tập huấn cho 5 điều dưỡng tham gia nghiên cứu (ĐDTV) về quy trình hướng dẫn và ghi chép số liệu. Dữ liệu được thu thập từ hồ sơ bệnh án và phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi, trong quá trình phỏng vấn, người bệnh được giải thích rõ về nội dung và mục đích khảo sát.

Đánh giá CLCS: Sử dụng công cụ EQ-5D-5L đánh giá CLCS theo 05 khía cạnh sức khỏe (sự đi lại, tự chăm sóc bản thân, các hoạt động hàng ngày, đau/khó chịu, lo lắng/trầm cảm). Thang đo sức khỏe VAS, cung cấp tỷ lệ chung về sức khỏe bản thân và cho điểm sức khỏe trên thang điểm 0-100, với 0 điểm đại diện cho sức khỏe 'tệ nhất' và 100 điểm là sức khỏe 'tốt nhất'. EQ-5D-5L và VAS là công cụ đã được chuẩn hóa đầu tiên cho người Việt Nam vào năm 2018, được thực hiện theo quy định, tiêu chuẩn dưới sự giám sát của các chuyên gia của Euroqol và được Euroqol phê chuẩn [2].

Thang đo TTNVYT: Thang đo TTNYVT đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu quốc tế, tại Việt Nam cũng đã có một số công trình sử dụng, tuy nhiên mức độ phổ biến vẫn còn hạn chế. Do đó, việc sử dụng thang đo này trong nghiên cứu hiện tại góp phần bổ sung thêm bằng chứng thực tiễn. Thang đo gồm 11 câu hỏi, được chấm điểm theo thang Likert 5 mức, từ 1 điểm (hoàn toàn không đồng ý) đến 5 điểm (hoàn toàn đồng ý). Một số câu hỏi có dạng phủ định (mục 1, 5, 7 và 11) sẽ được tính điểm ngược lại. Tổng điểm mà người bệnh có thể đạt được dao động từ 11 đến 55, phản ánh mức độ tin tưởng dành cho bác sĩ [4]. Thang điểm được phân loại dựa trên giá trị trung bình theo các nghiên cứu trước: hoàn toàn không đồng ý (1,0–1,8); không đồng ý (1,81–2,6); không rõ (2,61–3,4); đồng ý (3,41–4,2); và hoàn toàn đồng ý (4,21–5,0) [11].

          Độ tin cậy của công cụ được đánh giá thông qua tính nhất quán nội tại (internal consistency) bằng hệ số Cronbach’s Alpha, dựa theo tiêu chuẩn của George và Mallery (2003) [5]. Theo đó, một công cụ được xem là có độ tin cậy chấp nhận được khi Cronbach’s Alpha > 0,7. Kết quả phân tích cho thấy thang đo TTNVYT đạt Cronbach’s Alpha = 0,874 và thang đo CLCS đạt Cronbach’s Alpha = 0,934, chứng tỏ cả hai bộ câu hỏi đều có độ tin cậy rất tốt.

2.4. Xử lý số liệu và đạo đức nghiên cứu

Xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0. Các biến số được thể hiện theo trung bình (mean), độ lệch chuẩn (SD), số lượng (N) và tỉ lệ phần trăm (%). Sử dụng Regression test đánh giá tương quan giữa TTBSĐT và CLCS, kiểm định Mann-Whitney U kiểm định Kruskal-Wallis so sánh hai hay nhiều hơn hai nhóm độc lập không có phân phối chuẩn. Giá trị p < 0,05 là có ý nghĩa thống kê khi kiểm định. 

Nghiên cứu tuân thủ mọi quy định về bảo mật thông tin người bệnh.

3. KẾT QUẢ

3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=132)

Tiêu chí đánh giá

 N

%

Tuổi

< 45

15

11,36

45 – <64

66

50,0

≥ 65

51

38,64

Min-Max; ±SD

34÷85; 61,02±11,32

Giới tính

Nam

123

93,18

Nữ

9

6,82

Tình trạng

hôn nhân

Có gia đình

124

9,.94

Độc thân, li dị

8

6,06

Trình độ học vấn

Đại học trở lên

82

62,12

Dưới đại học

50

37,88

Nghề nghiệp

Công chức

45

34,09

Hưu trí

79

59,85

Tự do

8

6,06

Kinh tế

Khó khăn

110

83,33

Không khó khăn

22

16,67

Chỉ số BMI

BMI < 18

14

10,61

18 ≤ BMI < 23

93

70,45

BMI ≥ 23

25

18,94

          Nhận xét: Tuổi trung bình của người bệnh là 61,02 ± 11,32, thấp nhất là 34 tuổi, cao nhất là 85 tuổi, hay gặp nhất là trong khoảng 45 - 65 tuổi (50,0%). Giới tính nam chiếm đa số (93,18%). Người bệnh chủ yếu là có gia đình (93,94%). Trình độ dưới đại học (37,88%), nghề nghiệp hưu trí là cao nhất (59,85%), khó khăn tài chính (83,33%). Chỉ số BMI bình thường chiếm đa số (70,45%).

 

Bảng 3.2. Tình trạng bệnh của đối tượng nghiên cứu (n=132)

Các biến số

N

(%)

Thời gian bị bệnh

<3 tháng

37

28,03

3-6 tháng

49

37,12

>6 tháng

46

34,85

Thời gian điều trị

<3 tháng

49

37,12

3-6 tháng

52

39,39

>6 tháng

31

23,48

Child – Pugh

A

120

90,91

B

12

9,09

Giai đoạn

BCLC

Giai đoạn B

67

50,76

Giai đoạn C

65

49,24

Bệnh nền

Tim mạch

11

8,30

Hô hấp

40

30,30

Xơ gan

125

94,70

          Nhận xét: Thời gian bị bệnh và điều trị bệnh 3-6 tháng chiếm đa số (37,12% và 39,39%), người bệnh UTG ở giai đoạn B theo BCLC và Child-Pugh A chiếm cao nhất (50,76% và 90,91%), bệnh nền là xơ gan chiếm tỉ lệ cao nhất (94,7%).

3.2. Kết quả điểm tin tưởng nhân viên y tế và chất lượng cuộc sống

Bảng 3.3. Kết quả điểm độ tin tưởng nhân viên y tế (n=132)

TT

Câu hỏi

Câu trả lời

Mean±SD

1 điểm

2 điểm

3 điểm

4 điểm

5 điểm

1

Tôi nghi ngờ NVYT không thật sự quan tâm tôi như một người bệnh.

6

(4,5)

20

(15,2)

44

(33,3)

34

(25,8)

28

(21,2)

3,44±1,12

2

NVYT luôn chu đáo đến nhu cầu của tôi và đặt nó lên hàng đầu.

 

3 (2,3)

41

(31,1)

49

(37,1)

39

(29,5)

3,94±0,84

3

Tôi tin tưởng vào NVYT rất nhiều, luôn cố gắng làm theo lời khuyên của họ.

 

1

(0,8)

34

(25,8)

43

(32,6)

54

(40,9)

4,14±0,83

4

Nếu nhân viên y tế nói với tôi điều gì thì điều đó chắc chắn là đúng.

 

2

(1,5)

48

(36,4)

50

(37,9)

32

(24,2)

3,85±0,81

5

Thỉnh thoảng tôi không tin tưởng vào nhân viên y tế và muốn nghe thêm ý kiến khác.

3

(2,3)

21

(15,9)

46

(34,8)

34

(25,8)

28

(21,2)

3,48±1,07

6

Tôi tin tưởng những quyết định điều trị bệnh của NVYT.

 

1

(0,8)

48

(36,4)

50

(37,9)

33

(25,0)

3,87±0,80

7

Tôi cảm thấy NVYT chưa cố gắng hết sức để điều trị bệnh cho tôi.

2

(1,5)

23

(17,4)

46

(34,8)

33

(25,0)

28

(21,2)

3,47±1,06

8

Tôi tin rằng NVYT xem nhu cầu chăm sóc y tế là hàng đầu khi điều trị bệnh.

 

1

(0,8)

45

(34,1)

55

(41,7)

31

(23,5)

3,88±0,77

9

NVYT có đủ trình độ chuyên môn để giải quyết các vấn đề bệnh của tôi.

 

 

28

(21,2)

48

(36,4)

56

(42,4)

4,21±0,77

10

Tôi tin tưởng NVYT sẽ thông báo với tôi nếu có sai sót xảy ra trong quá trình điều trị.

 

1

(0,8)

51

(38,6)

56

(42,4)

24

(18,2)

3,78±0,74

11

Tôi đôi khi lo lắng NVYT có thể không giữ bí mật thông tin riêng tư.

1

(0,8)

25

(18,9)

41

(31,1)

34

(25,8)

31

(23,5)

3,52±1,07

          Nhận xét: Kết quả cho thấy mức độ tin tưởng của người bệnh đối với nhân viên y tế nhìn chung ở mức khá cao, với điểm trung bình dao động từ 3,44 đến 4,21. Người bệnh tin tưởng nhiều nhất vào trình độ chuyên môn của NVYT (Mean = 4,21 ± 0,77) và sự hướng dẫn trong điều trị (Mean = 4,14 ± 0,83). Các yếu tố về sự chu đáo, quan tâm đến nhu cầu của người bệnh cũng được đánh giá tích cực (Mean = 3,94 ± 0,84).

Bảng 3.4. Điểm các khía cạnh sức khỏe và CLCS (n=132)

STT

Khía cạnh sức khỏe (điểm)

Min ÷ Max

Mean± SD

1

CLCS

0,228±0,954

0,695±0,119

 

Sự đi lại

0,0±0,206

0,051±0,035

Tự chăm sóc

0,0±0,147

0,032±0,029

Sinh hoạt thường lệ

0,0±0,173

0,055±0,040

Đau/ khó chịu

0,0±0,367

0,109±0,075

Lo lắng/ u sầu

0,0±0,171

0,084±0,039

2

VAS

25±95

71,22±11,59

          Nhận xét: Điểm trung bình của CLCS là 0,695±0,119, điểm VAS là 71,22±11,59.

3.3. Liên quan giữa tin tưởng nhân viên y tế với chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan

 

   Biểu đồ 3.1. Tương quan giữa điểm TTNVYT với CLCS

Nhận xét: Có tương quan thuận giữa điểm TTNVYT với CLCS (p < 0,001; phương trình tương quan CLCS = 14,44 + 37,94 x TTNVYT).

 

Biểu đồ 3.2. Tương quan giữa điểm TTNVYT với điểm VAS

Nhận xét: Có tương quan thuận TTNVYT với điểm VAS (p < 0,001; phương trình tương quan VAS = 12,85 + 0,39 x TTNVYT).

Bảng 3.5. Liên quan giữa điểm TTNVYT với các đặc điểm người bệnh

Các biến số

Điểm TTNVYT

Mean Rank

p

Tuổi

< 45

92,90

0,002

45-64

69,46

≥ 65

54,90

Giới

Nam

65,52

0,276

Nữ

79,89

Tình trạng hôn nhân

Độc thân

59,00

 

Có gia đình

66,98

Trình độ học vấn

Đại học trở lên

71,62

0,229

Dưới đại học

63,38

Kinh tế

Khó khăn

65,32

0,426

Không khó khăn

72,41

Nghề nghiệp

Công chức

86,37

<0,001

Hưu trí

55,61

Tự do

62,31

BMI

BMI < 18

76,39

0,078

18 ≤ BMI < 23

60,83

BMI ≥ 23

82,06

Nhận xét: Các yếu tố như tuổi và nghề nghiệp có liên quan đến TTNVYT (p= <0,05).

Bảng 3.6. Liên quan các yếu tố bệnh và bệnh nền với điểm TTNVYT

Các biến số

Điểm TTNVYT

Mean Rank

p

Thời gian bị bệnh

<3 tháng

86,37

0,937

3-6 tháng

55,61

>6 tháng

62,31

Thời gian điều trị

<3 tháng

72,35

0,130

3-6 tháng

67,9

>6 tháng

54,9

Child – Pugh

A

65,53

0,353

B

76,25

Giai đoạn

BCLC

Giai đoạn B

64,51

0,542

Giai đoạn C

68,55

Bệnh Tim mạch

Không

68,94

0,055

49,68

Bệnh Hô hấp

Không

62,24

0,39

58,29

Bệnh Xơ gan

Không

79,29

0,362

65,78

Nhận xét: Các yếu tố bệnh và bệnh nền không có liên quan với điểm TTNVYT (p>0,05).

4. BÀN LUẬN 

 4.1. Đặc điểm người bệnh ung thư gan 

          Kết quả nghiên cứu cho thấy tuổi trung bình của người bệnh là 61,02 ± 11,32, thấp nhất là 34 tuổi, cao nhất là 85 tuổi, hay gặp nhất là 45 -< 64 tuổi (50,0%). Giới tính nam chiếm đa số (93,18%). Người bệnh chủ yếu là có gia đình (93,94%). Trình độ dưới đại học (37,88%), nghề nghiệp hưu trí là cao nhất (59,85%), khó khăn tài chính (83,33%). Chỉ số BMI bình thường chiếm đa số (70,45%) (Bảng 2). Kết quả này khá phù hợp với một số nghiên cứu trong nước và nước ngoài [1], [9], như vậy có thể nói UTG là bệnh hay gặp ở người cao tuổi, nam giới, người bệnh hầu hết là Child-Pugh A và BCLC giai đoạn trung gian. Người bệnh sống cùng với gia đình, có khó khăn về tài chính và đa số chỉ số BMI ở mức bình thường.

4.2. Liên quan giữa tin tưởng nhân viên y tế và chất lượng cuộc sống

          Kết quả nghiên cứu cho thấy, theo phản hồi của người bệnh, tất cả các mục của thang đo TTNVYT đều ở mức độ đồng ý trở lên (giá trị mean > 3,41). Có mối tương quan thuận giữa TTNVYT với CLCS và điểm VAS của người bệnh. Mối liên quan này cho thấy tầm quan trọng rõ ràng của niềm tin người bệnh vào nhân viên y tế chăm sóc và điều trị cho họ. Niềm tin vào nhân viên y tế càng cao thì họ càng thấy yên tâm và thoải mái cả về tinh thần và thể chất từ đó chất lượng cuộc sống tốt lên. Trong nghiên cứu này, chúng tôi có thể nói CLCS sẽ được cải thiện thông qua việc người bệnh tin tưởng nhân viên y tế, họ hiểu rõ các vấn đề sức khỏe, cách điều trị và cách dự phòng bệnh tật. Thái độ thân thiện của nhân viên y tế đã làm giảm bớt lo lắng của người bệnh. Điều này có thể làm tăng sự hài lòng của người bệnh với cơ sở điều trị, do đó tác động đến CLCS ở các khía cạnh sức khỏe thể chất và tinh thần. Ngoài ra, CLCS của người bệnh được cải thiện có thể là kết quả của việc được thoải mái trao đổi, thảo luận về các mối quan tâm sức khỏe của bản thân với bác sĩ điều trị và điều dưỡng chăm sóc, xây dựng được mối quan hệ tốt với nhân viên y tế. Kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trước đây cũng chỉ ra, người bệnh càng TTNVYT thì chất lượng cuộc sống của họ càng tốt hơn [1],  [3], [12].

Nghiên cứu còn cho thấy có liên quan điểm TTNVYT với tuổi và nghề nghiệp của người bệnh. Tuổi càng trẻ, nghề nghiệp là công chức nhà nước thì nhu cầu và nhận thức về bệnh tật cũng như các mối quan hệ trong xã hội tốt hơn thì TTNVYT càng cao. Đáng chú ý, các yếu tố bệnh lý như thời gian mắc bệnh, giai đoạn BCLC, mức độ Child-Pugh, hay bệnh nền (tim mạch, hô hấp, xơ gan) không liên quan đến mức độ tin tưởng NVYT (p > 0,05). Điều này gợi ý rằng niềm tin của bệnh nhân đối với NVYT chủ yếu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố cá nhân – xã hội hơn là tình trạng lâm sàng. Nói cách khác, cho dù mức độ bệnh nặng hay nhẹ, người bệnh vẫn đặt lòng tin vào NVYT dựa trên trải nghiệm giao tiếp, chăm sóc và sự an tâm mà họ cảm nhận được trong quá trình điều trị.Có thể nói mối quan hệ nhân viên y tế-người bệnh được cải thiện sau khi nhân viên y tế có sự quan tâm hướng đến người bệnh và giải thích trung thực kết quả khám và điều trị cho người bệnh [8], [6].Ngoài ra, việc chia sẻ tốt thông tin chẩn đoán và điều trị đã cải thiện CLCS của người bệnh. Có ý kiến ​​​​cho rằng một số người bệnh có niềm tin mù quáng vào nhân viên y tế có thể không có giá trị trong việc họ tham gia tích cực vào hoạt động đưa ra các quyết định liên quan đến quá trình khám và điều trị bệnh, điều này có thể dẫn đến giảm CLCS [6]. Một câu hỏi liên quan khác cần được giải quyết trong các nghiên cứu trong tương lai là liệu CLCS của người bệnh có thể bị ảnh hưởng bởi niềm tin của họ vào các cơ sở vật chất và tổ chức của cơ sở y tế, tách biệt với niềm tin của họ vào nhân viên y tế hay không.

5. KẾT LUẬN

Nghiên cứu trên 132 người bệnh UTG điều trị TACE cho thấy tuổi trung bình của người bệnh là khá cao 61,02 ± 11,32, thấp nhất là 34 tuổi, cao nhất là 85 tuổi. bệnh gặp đa số ở nam giới (93,18%). Người bệnh chủ yếu là ở  giai đoạn Child-Pugh A và BCLC giai đoạn trung gian. Kết quả nhấn mạnh giá trị của mối liên quan giữa TTNVYT với CLCS của người bệnh UTG, TTNVYT tốt hơn mang lại lợi ích cho CLCS cả khía cạnh thể chất và tinh thần. Trong quá trình chăm sóc điều trị người bệnh UTG bằng TACE tại Bệnh viện TWQĐ 108 nhân viên y tế cần chú trọng đến người bệnh cao tuổi và nghề nghiệp của họ để có biện pháp nâng cao TTNVYT.

 

6. TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Loan N. T., Trang P. T., Anh C. V và cộng sự (2024). Liên quan sự tin tưởng bác sĩ điều trị với chất lượng cuộc sống ở người bệnh ung thư biểu mô tế bào gan điều trị ngoại trú. Tạp chí y dược lâm sàng 108.
  2. Mai V. Q., Sun S., Minh H. V. và cộng sự. (2020). An EQ-5D-5L value set for Vietnam. Quality of Life Research; 29(7): 1923-33.
  3. AlRuthia Y., Sales I., Almalag H. và cộng sự.. (2020). The relationship between health-related quality of life and trust in primary care physicians among patients with diabetes. Clinical Epidemiology: 143-51.
  4. Anderson L. A., Dedrick R. F. (1990). Development of the Trust in Physician scale: a measure to assess interpersonal trust in patient-physician relationships. Psychological reports; 67(3_suppl): 1091-100.
  5. George D., Mallery P. (1999). SPSS for windows step by step: a simple guide and reference. Contemporary Psychology; 44: 100-.
  6. Lee Y.-Y., Lin J. L. (2011). How much does trust really matter? A study of the longitudinal effects of trust and decision-making preferences on diabetic patient outcomes. Patient education and counseling; 85(3): 406-12.
  7. LoCurto J., Berg G. M. J. S. o. m. (2016). Trust in healthcare settings: scale development, methods, and preliminary determinants. SAGE Open Medicine. 4: 2050312116664224.
  8. Maly R. C., Liu Y., Liang L. J. và cộng sự.. (2015). Quality of life over 5 years after a breast cancer diagnosis among low‐income women: effects of race/ethnicity and patient‐physician communication. Cancer; 121(6): 916-26.
  9. Poon R. T.-P., Fan S. T., Yu W. C. và cộng sự.. (2001). A prospective longitudinal study of quality of life after resection of hepatocellular carcinoma. Archives of surgery; 136(6): 693-9.
  10.  Topp S. M., Chipukuma J. M. (2016). A qualitative study of the role of workplace and interpersonal trust in shaping service quality and responsiveness in Zambian primary health centres. Health policy and planning; 31(2): 192-204.
  11.  Yaacob A., Awang-Hashim R., Valdez N. P. và cộng sự. (2019). Illuminating diversity practices in Malaysian higher education institutions. Social Indicators Research. 34: 1-16.
  12.  Yokokawa D., Ohira Y., Ikegami A. và cộng sự. (2022). Relationship between the presence of primary care physicians and health‐related quality of life. Journal of General and Family Medicine; 23(2): 87-93.

Tin mới