Kiến thức, thái độ và thực trạng về báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế Bệnh viện Đa khoa Mê Linh Năm 2025
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Sự cố y khoa không chỉ ảnh hưởng đến kết quả điều trị của người bệnh mà còn ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe, làm tăng chi phí y tế, do gây thiệt hại cho người bệnh, cơ sở y tế và nền kinh tế quốc gia. Kiến thức và thái độ giúp tăng hành vi báo cáo sự cố y khoa tự nguyện của nhân viên y tế.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện từ tháng 1 - 8/2025 tại bệnh viện Đa khoa Mê Linh trên đối tượng là tài liệu báo cáo sự cố y khoa, nhân viên y tế đang làm việc tại bệnh viện nhằm mục tiêu xác định thực trạng công tác báo cáo sự cố y khoa, kiến thức, thái độ và hành vi của nhân viên y tế về báo cáo sự cố y khoa tự nguyện và các yếu tố liên quan đến hành vi báo cáo sự cố y khoa tự nguyện.
Kết quả: 300 sự cố được báo cáo trong năm 2024, 100% là báo cáo tự nguyện, 45,6% sự cố là trên bệnh nhân, 42% trên NVYT. 78,3% báo cáo được thực hiện bởi nhóm Điều dưỡng-KTV-HS. NVYT có kiến thức tốt chiếm trên 90% ở hầu hết nội dung, thái độ tích cực chiếm trên 90% ở từng nội dung. Rào cản chính của báo cáo sự cố y khoa là tâm lý e ngại chiếm 52,6%.
Khuyến nghị: Tiếp tục thiết lập môi trường văn hóa an toàn người bệnh trong cơ sở y tế, đảm bảo sự an toàn cho người báo cáo, khen thưởng động viên người báo cáo để xóa tâm lý e ngại. Hoàn thiện quy trình báo cáo nhanh, gọn, dễ dàng để không mất thời gian của người báo cáo.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự cố y khoa là những tình huống không mong muốn xảy ra trong quá trình chẩn đoán, chăm sóc và điều trị do các yếu tố khách quan và chủ quan, nhưng không phải do sự phát triển bệnh lý hoặc thể chất của người bệnh, hoặc ảnh hưởng đến sức khỏe của người bệnh. Theo Neelam Dhingra-Kumar và cộng sự, ước tính trên thế giới hàng năm có 421 triệu người bệnh nhập viện, trong đó khoảng 42,7 triệu sự cố y khoa xảy ra ở những lần nhập viện này [9, tr.93-8][2]. Ở Việt Nam, sự cố y khoa xảy ra gần đây là sự quan tâm của toàn xã hội. Áp lực mà các bệnh viện phải gánh chịu như uy tín, kinh tế và nhân lực là rất lớn, gây ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng khám và chữa bệnh, là nguyên nhân của khủng hoảng niềm tin ở người bệnh, người bệnh không hài lòng, nhiều người bệnh nhập viện, gây gánh nặng về chi phí y tế và hành hung nhân viên y tế [1][2], [3]. Nếu các sự cố y khoa không được ghi nhận và không được tìm hiểu nguyên nhân để rút kinh nghiệm và có quy trình rõ ràng thì những sự cố này vẫn có thể bị tái diễn. Do vậy, các sự cố y khoa cần được công khai, báo cáo và phân tích một cách đầy đủ và khoa học, để từ đó hạn chế tối đa, đồng thời ngăn chặn được những sự cố không mong muốn, đảm bảo an toàn cho công tác khám chữa bệnh[2].
Báo cáo sự cố người bệnh là "một tài liệu điện tử hoặc giấy cung cấp một tài khoản chi tiết, bằng văn bản về chuỗi các sự kiện dẫn đến và sau một tình huống không lường trước được trong môi trường chăm sóc sức khỏe." Các báo cáo thường được hoàn thành bởi các nhân viên y tế đã chứng kiến vụ việc hoặc bởi nhân viên đầu tiên được thông báo về nó. Báo cáo sự cố của người bệnh được thực hiện không muộn hơn 24 đến 48 giờ sau khi sự cố xảy ra. Nhận thức của nhân viên y tế về hậu quả của các sai sót y tế đối với người bệnh là một trong những yếu tố giúp họ báo cáo các sự cố y khoa một cách tự nguyện. [11, tr.1493-9] Một số nghiên cứu cho thấy đó là mối quan hệ tích cực giữa kiến thức, thái độ và hành vi. Trong đó, kiến thức được xem là yếu tố tác động tích cực đến thái độ, thúc đẩy thay đổi thái độ theo hướng tích cực. Thái độ này đã thay đổi sau đó ảnh hưởng đến hành vi, thúc đẩy sự thay đổi hành vi tích cực. Nâng cao kiến thức và thái độ giúp tăng hành vi báo cáo sự cố y khoa tự nguyện của nhân viên y tế. Kiến thức, thái độ và hành vi báo cáo sự cố y khoa có tác động trực tiếp đến sự thay đổi hệ thống và góp phần vào sự an toàn của người bệnh.[8, tr.3230-3237]
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh giá thực trạng kết quả công tác báo cáo sự cố y khoa của bệnh viện năm 2024, xác định kiến thức, thái độ và hành vi của nhân viên y tế tại bệnh viện năm 2025. Bên cạnh đó, các yếu tố liên quan đến hành vi báo cáo sự cố y khoa tự nguyện của họ cũng được xác định
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng và thiết kê nghiên cứu
- Đối tượng 1. Báo cáo SCYK: Nghiên cứu sử dụng toàn bộ báo cáo SCYK bằng mọi hình thức của các khoa, phòng trong bệnh viện gửi về phòng Quản Lý chất lượng trong năm 2024
- Đối tượng 2. Cán bộ, NVYT đang công tác tại BV Đa khoa Mê Linh tại thời điểm 2025
* Thiết kế nghiên cứu:Nghiên cứu mô tả cắt ngang, phân tích kết hợp thu thập số liệu thứ cấp và điều tra thu thập số liệu sơ cấp
* Địa điểm nghiên cứu: Bệnh viên Đa khoa Mê Linh
* Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 1-2025 đến tháng 6-2025.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu trong điều tra số liệu thứ cấp: Chọn toàn bộ các báo cáo sự cố y khoa được lưu trữ và quản lý tại phòng QLCL, sự cố do phòng QLCL ghi nhận và được ghi chép/lưu giữ/ghi nhận. Các thông tin được chiết xuất gồm các thông tin về sự cố, thời gian, vị trí, đối tượng, tình huống, mức độ ảnh hưởng của SCYK, người thông tin/báo cáo, hình thức, phương thức báo cáo, mức độ tổn thương (Theo mẫu phiếu báo cáo SCYK ban hành kèm theo thông tư 43/2018/TT-BYT).
+ Tất cả các báo cáo sự cố y khoa được lấy thông tin để nhập vào phần mềm Excel và được mã hóa phân loại sự cố theo đầy đủ các mục trong mẫu báo cáo sự cố y khoa của thông tư 43/2018/TT-BYT. Nếu trong báo cáo không có thông tin theo yêu cầu thì bỏ trống. Ví dụ: bỏ trống trường người báo cáo nếu không có thông tin.
+ Nghiên cứu sử dụng tần số và tỷ lệ % để mô tả tần số của các biến trong nghiên cứu về đánh giá thực trạng báo cáo gồm: Người báo cáo, phương thức báo cáo, chất lượng thông tin của báo cáo và nội dung các sự cố được báo cáo (phân loại sự cố theo nguyên nhân, đối tượng liên quan, cách xử lý…)
- Cỡ mẫu trong điều tra số liệu sơ cấp: Chọn toàn bộ NVYT của BV Đa khoa Mê Linh tại thời điểm nghiên cứu loại trừ các đối tượng không đồng ý tham gia nghiên cứu
2.2.2 Công cụ nghiên cứu:
- Bảng thu thập số liệu thứ cấp: được thiết kế dạng bảng trông để thu thập toàn bộ số liệu từ báo cáo SCYK trong năm 2024 từ phòng QQLCL.
- Bộ công cụ thu thập số liệu sơ cấp: Bảng câu hỏi tự điền được thiết kế gồm gồm 5 phần, Phần A thu thập thông tin nhân khẩu học, Phần B,: Hiểu biết về sự cố y khoa, Phần C tần xuất và trải nghiệm báo cáo SCYK, Phần D, Khả năng tiếp cận và thông tin về SCYK, Phần E, Thái độ về vbaso cáo SCYK.
- Xử lý và phân tích số liệu: Phần mềm SPSS 20.0 đã được sử dụng để nhập, xử lý và phân tích số liệu.
- Đạo đức trong nghiên cứu: Người tham gia nghiên cứu nhận được đầy đủ thông tin về mục tiêu nghiên cứu, lợi ích và ảnh hưởng khi tham gia nghiên cứu và tự nguyện tham gia. Bảng khảo sát không thu thập thông tin định danh người tham gia nghiên cứu, các số liệu thu thập được chỉ sử dụng cho mục tiêu nghiên cứu và lưu trữ đúng quy định.
III. KẾT QUẢ
3.1 Thực trạng báo cáo sự cố y khoa năm 2024
3.1.1 Hình thức báo cáo sự cố y khoa (n=300)
|
Hình thức báo cáo |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
Tự nguyện |
300 |
100% |
|
Bắt buộc |
0 |
0 |
Nhận xét: 100% báo cáo SCYK là tự nguyện.
3.1.2 Đối tượng báo cáo sự cố y khoa (n=300)
|
Chức danh chuyên môn |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
Bác sĩ |
25 |
8,3% |
|
Điều dưỡng, KTV, Hộ sinh |
245 |
78,3% |
|
Nhân viên khác |
40 |
13,3% |
Nhận xét: Khối Điều dưỡng, KTV, Hộ sinh là khối thực hiện báo cáo SCYK chủ yếu chiếm 78,3%
3.1.3 Đối tượng xảy ra sự cố y khoa (n=300)
|
Đối tượng |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
Nhân viên y tế |
126 |
42,00 % |
|
Người bệnh |
137 |
45,67 % |
|
Trang thiết bị /cơ sở hạ tầng |
43 |
14,33 % |
Nhận xét: SCYK xảy ra trên người bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo là trên NVYT
3.1.4. Thời gian báo cáo sự cố y khoa kể từ khi phát hiện sự cố (n=300)
|
Thời gian |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
≤ 1 giờ |
37 |
12,3 % |
|
≤ 24 giờ |
165 |
55 % |
|
≤ 72 giờ |
83 |
27,7 % |
|
> 72 giờ |
15 |
5 % |
Nhận xét: Hầu hết SCYK được báo cáo ngay trong ngày chiếm 67,3%, trong đó báo cáo ngay lập tức (ngay giờ đầu tiên sau khi sự cố xảy ra chiến đến 12,3%)
3.1.5. Đặc điểm, tính chất sự cố y khoa
|
Nội dung |
Đặc điểm |
Số lượng |
Tỷ lệ (%) |
|
Đặc điểm sự cố |
Tình huống có nguy cơ gây ra sự cố (near miss). (Nhóm A) |
10 |
3,3 |
|
Sự cố đã xảy ra, chưa tác động trực tiếp đến người bệnh. (Nhóm B) |
168 |
56,0 |
|
|
Sự cố đã xảy ra tác động trực tiếp đến người bệnh, chưa gây nguy hại. (Nhóm C) |
110 |
36,7 |
|
|
Sự cố đã xảy ra tác động trực tiếp đến người bệnh, cần phải theo dõi hoặc đã can thiệp điều trị kịp thời nên không gây nguy hại. (Nhóm D) |
11 |
3,7 |
|
|
Sự cố đã xảy ra gây nguy hại tạm thời và cần phải can thiệp điều trị. (Nhóm E) |
1 |
0,3 |
|
|
Thực hiện quy trình kỹ thuật, thủ thuật chuyên môn |
100 |
33.3 |
|
Nhiễm khuẩn bệnh viện |
0 |
|
|
|
Thuốc và dịch truyền |
4 |
1.3 |
|
|
Thiết bị y tế |
14 |
4.7 |
|
|
Tai nạn đối với người bệnh |
8 |
2.7 |
|
|
Hạ tầng cơ sở |
24 |
8.0 |
|
|
Quản lý nguồn lực, tổ chức |
14 |
4.7 |
|
|
Hồ sơ, tài liệu, thủ tục hành chính |
63 |
21 |
|
|
Nhân viên y tế |
149 |
49,7 |
|
Người bệnh |
25 |
8,3 |
|
|
Môi trường làm việc |
43 |
14,3 |
|
|
Tổ chức/Dịch vụ |
39 |
13,0 |
|
|
Yếu tố bên ngoài |
5 |
1,7 |
|
|
Khác |
37 |
12,3 |
Nhận xét: Hầu hết SCYK được báo cáo là ở nhóm B và nhóm C, chiếm 92,7%, tức các SCYK đã xảy ra nhưng chưa tác động trực tiếp hoặc chưa gây nguy hại cho đối tượng bị sự cố.
3.2. Kiến thức- thái độ của NVYT về Báo cáo sự cố y khoa
3.2.1 Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
|
Đặc điểm |
Số lượng |
Tỷ lệ (%) |
|
|
Tuổi |
Dưới 30 |
72 |
24,9 |
|
30-40 |
146 |
50,5 |
|
|
41-50 |
64 |
22,1 |
|
|
Trên 50 |
7 |
2,4 |
|
|
Giới |
Nam |
65 |
22,5 |
|
Nữ |
224 |
77,5 |
|
|
Khoa |
Lâm sàng |
195 |
67,5 |
|
|
Cận lâm sàng |
57 |
19,7 |
|
|
Hành chính |
37 |
12,8 |
|
Chuyên môn nghề nghiệp |
Bác sỹ |
76 |
26,3 |
|
Dược sỹ |
24 |
8,3 |
|
|
Hộ sinh |
12 |
4,2 |
|
|
Điều dưỡng |
133 |
46 |
|
|
KTV |
20 |
6,9 |
|
|
NVHC |
16 |
5,5 |
|
|
Khác |
8 |
2,8 |
|
|
Thâm niên công tác |
Dưới 5 năm |
22 |
7,6 |
|
5-10 năm |
77 |
26,6 |
|
|
11-20 năm |
49 |
17 |
|
|
Trên 20 năm |
72 |
24,9 |
|
|
Thâm niên công tác tại khoa hiện tại |
Dưới 6 tháng |
14 |
4,8 |
|
6 tháng -1 năm |
25 |
8,7 |
|
|
2-5 năm |
99 |
34,3 |
|
|
6-10 năm |
48 |
16,6 |
|
|
11-15 năm |
55 |
19 |
|
|
Trên 15 năm |
48 |
16,6 |
|
|
Tiếp xúc với người bệnh |
Có |
260 |
90 |
|
Không |
29 |
10 |
|
Nhận xét: Đối tượng nghiên cứu gồm đầy đủ tất cả các vị trí, chức danh nghề nghiệp trong BV, trong đó nữ chiếm tỷ lệ cao, độ tuổi phổ biến là 30-40 tuổi, điều dưỡng chiếm gần một nửa nhân lực và thâm niên công tác phổ biến nahats là đã làm việc từ 5-10 năm.
3.2.2 Kiến Thức về báo cáo sự cố y khoa
Bảng 3.2.2. 1 Hiểu biết về báo cáo sự cố
|
Nội dung kiến thức |
Trả lời |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
Biết mục đích của báo cáo sự cố |
Giúp lãnh đạo đưa ra biện pháp giải quyết sự cố |
256 |
88,6 |
|
Giúp đòng nghiệp rút kinh nghiệm từ sự cố đã xảy ra, tránh lặp lại |
264 |
91,3 |
|
|
Biết đến hệ thống báo cáo sự cố của bệnh viện |
Có |
289 |
100 |
|
Không |
0 |
0 |
|
|
Biết đến những hình thức báo cáo sự cố |
1. Gửi phiếu báo cáo sự cố trực tiếp cho T.QLCL |
256 |
88,6 |
|
2. Gửi báo cáo sự cố qua email cho T.QLCL |
229 |
79,2 |
|
|
3. Gọi điện thoại nội bộ cho T.QLCL |
202 |
69,9 |
|
|
4. Báo cáo miệng trực tiếp cho T.QLCL |
182 |
63 |
|
|
5. Báo cáo cho Ban chủ nhiệm khoa |
182 |
63 |
|
|
Biết người có nhiệm vụ báo cáo sự cố |
1. Bác sĩ |
255 |
88,2 |
|
2. Dược sĩ |
252 |
87,2 |
|
|
3. Hộ sinh |
252 |
87,2 |
|
|
4. Điều dưỡng |
255 |
88,2 |
|
|
5. Kỹ thuật viên |
253 |
87,5 |
|
|
6. Thư ký y khoa |
237 |
82 |
|
|
7. Nhân viên hành chính |
242 |
83,4 |
|
|
Biết tình huống nào cần báo cáo sự cố? (chọn nhiều đáp án) |
1. Khi bản thân trực tiếp phát hiện sự cố xảy ra tại nơi làm việc |
273 |
94,5 |
|
2. Khi nghe đồng nghiệp trong khoa kể về sự cố đã xảy ra |
153 |
52,9 |
|
|
3. Khi sự cố lặp đi lặp lại nhiều lần tại khoa mà không được giải quyết |
251 |
86,9 |
|
|
4. Khi phát hiện ra sự cố xảy ra tại khoa, phòng khác |
194 |
67,1 |
|
|
5. Khi có than phiền của người bệnh/thân nhân người bệnh về vấn đề tại khoa |
211 |
73 |
|
|
6. Khi phát hiện ra các bất thường, nếu không giải quyết kịp thời sẽ gây nguy hại cho người bệnh, nhân viên y tế |
257 |
88,9 |
Nhận xét: Hầu hết NVYT có hiểu biết đầy đủ về Báo cáo SCYH như Biết mục đích của báo cáo sự cố, Biết đến hệ thống báo cáo sự cố, Biết đến những hình thức báo cáo, biết vai trò nhiệm vụ của NVYT trong báo cáo sự cố, và biết những tình huống cần báo cáo sự cố. Hầu hết các nội dung về kiến thức đều đạt trên 60% cho đến trên 90%. Cụ thể, 100% biết hệ thống báo cáo sự cố, 91,3% cho rằng báo cáo sự cố để rút kinh nghiệm nhằm không để lặp lại sự cố tương tự. Với tình huống cần báo cáo sự cố, chỉ 52,9% NVYT sẽ báo cáo khi nghe đồng nghiệp kể về sự cố đã xảy ra.
Bảng 3.2.3 Hiểu biết về cách Phản ứng đúng với các tình huống của sự cố
|
Nôi dung kiến thức |
Trả lời |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
Khi một sai sót xảy ra nhưng đã được phát hiện và ngăn chặn trước khi ảnh hưởng đến người bệnh, anh/chị có báo cáo sai sót này không? |
Có |
273 |
94,5 |
|
Không |
16 |
5,5 |
|
|
Khi một sai sót xảy ra nhưng không có khả năng gây hại cho người bệnh, anh/chị có báo cáo sai sót này không? |
Có |
272 |
94,1 |
|
Không |
17 |
5,9 |
|
|
Khi một sai sót xảy ra, đáng lẽ gây hại cho người bệnh nhưng (may mắn) chưa gây hại, anh/chị có báo cáo sai sót này không? |
Có |
287 |
99,3 |
|
Không |
2 |
0,7 |
|
|
Khi phát hiện sự cố, anh/chị thường xử lý như thế nào? |
1. Báo cáo cho Ban chủ nhiệm khoa để giải quyết |
249 |
86,2 |
|
2. Báo cáo cho trưởng tua trực |
241 |
74,0 |
|
|
3. Báo cáo trực tiếp trên giao ban viện |
117 |
40,5 |
|
|
4. Gửi báo cáo cho Tổ QLCL |
253 |
87,5 |
|
|
5. Im lặng |
2 |
0,7 |
Nhận xét: Hầu hết NVYT đều có kiến thức phản ứng đúng với các tình huống sự cố, câu trả lời đúng đều trên 90%. Ban chủ nhiệm khoa là nơi NVYT lựa chọ để báo cáo nhiều nhất chiếm 86,2%, chỉ 40,5% chọn báo cáo trong giao ban bệnh viện và còn 0,7% sẽ lựa chọn im lặng.
Bảng 3.2.3 Lý do cản trở báo cáo sự cố
|
Nội dung |
Số lượng |
Tỷ lệ |
|
1. Báo cáo nhưng không được phản hồi |
57 |
19,7 |
|
2. Chưa hiểu khi nào cần báo cáo |
37 |
12,8 |
|
3. Phát hiện sự cố nhưng không có thời gian để báo cáo |
96 |
33,2 |
|
4. Phiếu báo cáo sự cố quá dài, không có thời gian viết phiếu |
36 |
12,5 |
|
5. Nghĩ rằng “có báo cáo cũng không được xử lý” |
30 |
10,4 |
|
6. Tâm lý e ngại (sợ bị kỷ luật, sợ đồng nghiệp ghét, sợ Ban chủ nhiệm khoa…) |
152 |
52,6 |
|
7. Không tìm thấy phiếu báo cáo sự cố tại khoa để viết. |
1 |
3,1 |
Nhận xét: Sợ bị kỷ luật, bị ghét.. là lý do, rào cản phổ biến nhất (52,6%) ngăn cản NVYT không baos cáo sự cố, không có thời gian để báo cáo là lý do phổ biến tiếp theo.
3.3. Thái độ của NVYT về báo cáo sự cố y khoa
Bảng 3.3.1 Thái độ của NVYT về báo cáo sự cố y khoa
|
Nội dung |
Không đồng ý |
Không biết |
Đồng ý |
|||
|
Số lương |
Tỷ lệ |
Số lương |
Tỷ lệ |
Số lương |
Tỷ lệ |
|
|
Tất cả các bước trong chăm sóc sức khỏe đều có khả năng xảy ra sự cố y khoa |
0 |
0 |
1 |
0,3 |
288 |
99,7 |
|
Hầu hết các SCYK đều có thể phòng tránh được |
50 |
17,3 |
12 |
4,2 |
227 |
78,5 |
|
Sự cố y khoa làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của Bệnh viện cũng như niềm tin của người dân với CBYT |
17 |
5,9 |
4 |
1,4 |
268 |
92,7 |
|
CBYT phải nhận thức được những nguy cơ lâm sàng có thể gây ra sự cố y khoa trong chăm sóc người bệnh là điều quan trọng nhất |
2 |
0,7 |
1 |
0,3 |
286 |
99 |
|
Tuân thủ các quy trình kỹ thuật là cần thiết để làm giảm sự cố y khoa trong chăm sóc người bệnh |
0 |
0 |
0 |
|
289 |
100 |
|
Đào tạo thường xuyên về kiến thức và kỹ năng cho cán bộ y tế là việc làm cần thiết để giảm sự cố y khoa |
0 |
0 |
2 |
0,7 |
287 |
99,3 |
|
Nâng cao trách nhiệm của CBYT trong chăm sóc người bệnh là cần thiết để làm giảm sự cố y khoa |
0 |
0 |
2 |
0,7 |
287 |
99,3 |
|
Môi trường làm việc có ảnh hưởng quan trọng gây nên các sự cố y khoa |
15 |
5,2 |
18 |
6,2 |
256 |
88,6 |
|
Đánh giá định kỳ kỹ năng chuyên môn của CBYT là cần thiết để giảm sự cố y khoa |
1 |
0,3 |
3 |
1,0 |
285 |
98,6 |
|
Cần khuyến khích các cán bộ y tế báo cáo sự cố y khoa khi xảy ra |
0 |
0 |
2 |
0,7 |
287 |
99,3 |
Nhận xét: Hầu hết NVYT có tháy độ tích cực về báo cáo SCYK, trong đó 100% cho rằng cần thiết tuân thủ nghiêmngặt quy trình kỹ thuật, 99,3% ủng hộ việc khuyến khích báo cáo SCYK, đòa tạo về ATNB. Một số nội dung NVYT còn băn khoăn như khả năng phòng tránh SCYK (21,5%) hay môi trường cảnh quan có ảnh hwuorng đến khả năng xảy ra SCYK hay không (11,4%).
IV. BÀN LUẬN
4.1 Thực trạng báo cáo SCYK năm 2024
Qua phân tích số liệu thứ cấp từ nguồn báo cáo sự cố y khoa của bệnh viện từ tháng 01/2024 đến tháng 12/2024 thu thập được 300 sự cố sắp xảy ra và đã xảy ra nhận thấy hầu hết là sự cố đã xảy ra (96,7%), chỉ có 3,3% là sự cố chưa xảy ra. 100% là báo cáo tự nguyện. Điều này cho thấy ý thức tự nguyện của NVYT là rất đáng khích lệ.
Điều dưỡng, KTV, Hộ sinh là lực lượng có tỷ lệ thực hiện báo cáo sự cố y khoa cao nhất, chiếm 78,3% số liệu này thấp hơn Mạc Xuân Hào 82,8% [16], lớn hơn các báo cáo của Nguyễn Thị Thu Hà [5]67,9% và Kiều Quang Phát 62,7%[18], nhưng lại phản ánh cùng một thực trạng là các báo cáo được thực hiện chủ yếu do đội ngũ điều dưỡng. Phần lớn nguồn nhân lực trong bệnh viện là điều dưỡng chiếm 70% họ thường là người đầu tiên tiếp xúc với người bệnh, hàng ngày thực hiện công việc chăm sóc sức khỏe do vậy việc phát hiện ra sự cố trước là điều dễ hiểu. Định kỳ theo tháng, theo quý nên có các nhóm kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy trình chuyên môn, kỹ thuật để xác định được các danh mục sự cố thường xuyên xảy ra theo đặc thù từng nhóm đối tượng theo chức danh chuyên môn,
Trong số các sự cố được báo cáo thì hình thức báo cáo bắt buộc trong thời gian thu thập là không có, 100% là báo cáo tự nguyện. Kết quả này của chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà với 99%[5] là báo cáo tự nguyện, và phần lớn báo cáo trong nghiên cứu của Kiều Quang Phát là báo cáo tự nguyện, các tác giả khác Lữ Thúy Huê cũng cho nhận định tương tự [18], [15]. Tăng cường tập huấn, nâng cao trách nhiệm của từng nhân viên y tế, đảm bảo an toàn người bệnh trong việc phát hiện và tự nguyện báo cáo sự cố, có hình thức thi đua khen thưởng cá nhân, tập thể tự nguyện báo cáo sự cố. Hướng dẫn cho người bệnh, người nhà người bệnh hợp tác trong việc phát hiện và báo cáo sự cố theo quy định.
Các báo cáo được gửi đúng thời gian quy định tỷ lệ cao, chỉ có 5% báo cáo sau 72 giờ, báo cáo được thực hiện ngay trong ngày chiếm 67,3%. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Phí Thị Thu Hà tại BV Sản Nhi Quảng ninh (25.71% ) [13] hay nghiên cứu cứu của Mạc Xuân Hào 100% [16]. Các nhóm yếu tố người bệnh, nhân viên y tế thường giải quyết sự cố trước sau đó thực hiện các thủ tục báo cáo văn bản, qua các kênh thông tin tiếp nhận nên thời gian báo cáo đúng quy định chiếm tỷ lệ thấp. Tăng cường kiểm tra, giám sát, báo cáo định kỳ việc thực hiện các quy định hướng dẫn phòng ngừa sự cố tại các khoa phòng chức năng của khoa phòng hạn chế sự cố xảy ra.
Theo phân loại SCYK nhóm SCYK trong thực hiện quy trình kỹ thuật, thủ thuật chuyên mô chiếm tỷ lệ cao nhất (33,3%). Người bệnh là đối tượng xảy ra sự cố cao nhất chiếm 45,67%. Tỷ lệ này thấp hơn nhiều so vơi nghiên cứu của Phí Thị Thu Hà với tỷ lệ 87.14%,[13] và các nghiên cứu Kiều Quang Phát, Mạc Xuân Hào.[18], [16] Vấn đề này khá phù hợp với thực tế vì đây là đối tượng chính trong nhiệm vụ chăm sóc và điều trị của bệnh viện. Ngoài ra nhân viên y tế là nhóm đối tượng chịu ảnh hưởng của SCYK cao thứ hai, chiếm đến 42%. Đây là tỷ lệ rất cao khi so với các nghiên cứu khác như Phí Thị Thu Hà tại BV Sản nhi Quang Ninh (7.15%)[13].
Phần lớn SCYK trong nghiên cứu này là sự cố đã xảy ra và chưa gây hại (96,7%), chỉ có 3,3% là sự cố chưa xảy ra. Tỷ lệ nyaf trái ngược với nghiên cứu tại BV Sản Nhi Quảng Ninh khi nghiên cứu này cho thấy phần lướn các sự cố là các sự cố sắp xảy ra (80.61%).[13]. Liên quan đến hồ sơ bệnh án, thủ tục hành chính cao hơn các nghiên cứu tương tự; nó cũng phù hợp với việc hầu hết các sự cố được thu thập từ phòng QLCL và phòng KHTH thông qua việc kiểm tra thủ tục hành chính, hồ sơ bệnh án, quy trình chuyên môn. Do vậy cần tăng cường tập huấn để có thể phát hiện, dự baspo trước nhằm báo cáo sự cố trước khi nó xảy ra.
Kiên thức, thái độ của NVYT về báo cáo SCYK
Hầu hết NVYT có hiểu biết đầy đủ về Báo cáo SCYH như Biết mục đích của báo cáo sự cố, Biết đến hệ thống báo cáo sự cố, Biết đến những hình thức báo cáo, biết vai trò nhiệm vụ của NVYT trong báo cáo sự cố, và biết những tình huống cần báo cáo sự cố. Hầu hết các nội dung về kiến thức đều đạt trên 60% cho đến trên 90%. Cụ thể, 100% biết hệ thống báo cáo sự cố, 91,3% cho rằng báo cáo sự cố để rút kinh nghiệm nhằm không để lặp lại sự cố tương tự. Với tình huống cần báo cáo sự cố, chỉ 52,9% NVYT sẽ báo cáo khi nghe đồng nghiệp kể về sự cố đã xảy ra. Kết quả này cũng khá tương đồng với các nghiên cứu khác khi các tác giả cũng ghi nhận kiến thức đạt của NVYT về báo cáo SCYK khá khả quan. Nghên cứu của Tác giả Lữ Thúy Huê cho thấy khoảng 60,18% người tham gia nghiên cứu có kiến thức tốt về báo cáo sự cố y khoa tự nguyện, trong khi những người có thái độ tốt về báo cáo sự cố y khoa tự nguyện ít hơn một chút, với 56,6%.[15] . Kết quả nghiên cứu của Phạm Viết Thắng và cộng sự (2021) khảo sát kiến thức, thái độ, hành vi của nhân viên y tế về báo cáo sự cố y khoa tự nguyện tại bệnh viện Đa khoa Tỉnh Gia Lai năm 2021 Kết quả của các tác giả này cho thấy gần 1/3 (31,33%) nhân viên y tế kiến thức chưa đạt về sự cố y khoa 23,19%. Phần lớn (80,73%) nhân viên y tế không nhận diện được sự cố y khoa. Đa số (76,81%) nhân viên y tế có thái độ tích cực về báo cáo sự cố y khoa và 23,19% nhân viên y tế có thái độ chưa tích cực về báo cáo sự cố y khoa.[15], [19, tr.84-91]
Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hồng tại BV Quốc tế Vinmec Times City năm 2025 cho thấy, nhìn chung, kết quả đánh giá tỉ lệ điều dưỡng và hộ sinh có kiến thức đạt về báo cáo sự cố y khoa là 65,4%. Trong các nghiên cứu được rà soát, có rất ít nghiên cứu cố gắng xác định được tỉ lệ chung nhân viên y tế có kiến thức đúng về báo cáo sự cố y khoa, đặc biệt là trên đối tượng điều dưỡng và hộ sinh nói riêng. [14]. Chỉ có một số ít nghiên cứu được tìm thấy: kết quả đánh giá chung tỉ lệ điều dưỡng và hộ sinh có kiến thức đạt trong nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn kết quả nghiên cứu mô tả cắt ngang tại một trung tâm y tế của Hoa Kỳ năm 2016 với tỉ lệ nhân viên y tế có kiến thức báo cáo sự cố y khoa là 84,1% [12, tr.i2139] thấp hơn nghiên cứu được thực hiện tại hai trung tâm y tế ở Ả Rập năm 2016 có 89,5% bác sĩ và điều dưỡng có kiến thức tốt về báo cáo sự cố y khoa [12, tr.i2139]. Nghiên cứu của Trần Doãn Hiếu và cộng sự năm 2022 thấy điều dưỡng và hộ sinh có kiến thức tốt về sự cố y khoa chiếm tỉ lệ 79,2% [20] cao hơn nghiên cứu của Trần Thị Bích Bo năm 2017 xác định có 10,4% nhân viên y tế có kiến thức đúng về báo cáo sự cố y khoa [7] ; nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền năm 2021 là 15,8% [6]. Điều này có thể giải thích các điều dưỡng và hộ sinh của bệnh viện chưa được đào tạo bài bản về sự cố y khoa nên chỉ nhận diện được sự cố, chưa có kiến thức về biện pháp khắc phục sự cố (lớp tập huấn chuyên biệt về an toàn người bệnh, phòng ngừa sự cố y khoa được tổ chức từ nhiều năm trước), phần lớn kiến thức mà điều dưỡng và hộ sinh thu lượm được là tại đơn vị công tác, trong các buổi buổi giao ban, sinh hoạt khoa học, tập huấn chung với các chuyên đề khác không mang tính hệ thống. Nhiều nghiên cứu đã khẳng định cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn về an toàn người bệnh, phòng ngừa sự cố y khoa; các chương trình tập huấn giúp nâng cao kiến thức của điều dưỡng về an toàn, vậy cần duy trì và cập nhật thường xuyên nhằm nâng cao chất lượng chăm sóc, hướng tới sự an toàn, hài lòng của người bệnh và thân nhân của họ.
Thái độ về báo cáo SCYK trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy phần lớn hơn 90% có thái độ đúng. Tỷ lệ này tương ứng với các nghiên cứu trước đó. Nghiên cứu của Nguyễn Thị Hhoofngcho thấy thái độ về báo cáo sự cố y khoa của điều dưỡng và hộ sinh đạt về báo cáo sự cố y khoa là 92,5%[14], nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền năm 2021 thấy thái độ tốt báo cáo sự cố y khoa là 88,6% [6]. Điều này cho thấy nhân viên y tế tại Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City đã có thái độ tương đối tốt về báo cáo sự cố y khoa. Trong 254 điều dưỡng và hộ sinh tham gia vào nghiên cứu, khi được hỏi về việc đã từng báo cáo sự cố y khoa hay chưa thì chỉ có 16,5% điều dưỡng và hộ sinh chưa bao giờ báo cáo sự cố y khoa, thấp hơn kết quả nghiên cứu của Trần Thị Bích Bo năm 2017 với 73% nhân viên y tế chưa từng báo cáo sự cố y khoa [7]. Kết quả này cũng là phù hợp với thực tế khi số lượng báo cáo sự cố y khoa được ghi nhận tại bệnh viện hàng năm, đây cũng là một tín hiệu đáng mừng để nâng cao ý thức và chất lượng của bệnh viện.
Đánh giá chung, tỉ lệ thực hành đạt về báo cáo sự cố y khoa của điều dưỡng và hộ sinh là 82,7%, cao hơn nhiều nghiên cứu khác như của Nguyễn Thị Thu Hiền thực hành đạt về báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế là 79,8% [6]. Điều này có thể là do điều dưỡng và hộ sinh tham gia nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ kiến thức và thái độ đạt cao hơn so với nghiên cứu khác và các câu trả lời đánh giá thực hành chủ yếu dựa vào câu trả lời chủ quan của điều dưỡng và hộ sinh mà chưa đi sâu vào đánh giá thực tế và không quan sát. Mặc dù đây là phương pháp dễ thực hiện và ít tốn kém, nhưng lại phụ thuộc chủ quan vào người trả lời, nên việc đánh giá chính xác thực hành báo cáo sự cố y khoa của điều dưỡng và hộ sinh khó đạt được.
Trong các yếu tố đặc điểm cá nhân của người tham gia nghiên cứu, chỉ tìm thấy 3 yếu tố liên quan đến hành vi báo cáo sự cố y khoa tự nguyện là kiến thức, thái độ và thời gian làm việc. Kết quả này tương tự với kết quả của Barta và cộng sự (2005) cũng cho thấy có tác động tích cực về kiến thức và thái độ đối với hành vi tốt của nhân viên y tế về việc báo cáo sự cố y khoa tự nguyện. 7 Ngoài ra, Đặng Phương Dung (2021)[3] cũng tìm thấy kết quả không có sự khác biệt về độ tuổi, giới tính, trình độ học vấn hoặc kinh nghiệm làm việc về hành vi của việc báo cáo sự cố y khoa tự nguyện.
Những rào cản của báo cáo SCYK
Điều hành quản lý hệ thống thông tin báo cáo SCYK
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra, điều hành quản lsy hệ thống thông tin báo cáo SCYK đóng vai trò quan trọng. Khi Bệnh viện đã nhận thức tầm quan trọng của SCYK, đầu tư thỏa đáng và hỗ trợ tối đa hệ thống báo cáo SCYK việc báo cáo sẽ diễn ra dễ dàng hơn. Kết quả này cũng tương tự với Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hà, năm 2019, tại bệnh viện Việt Nam-Thụy điển Uông bí [5].
Quy định, quy trình về báo cáo sự cố
Qua kết quả cho thấy quy trình quản lý SCYK tại Bệnh viện đơn giản, dễ hiểu, dễ sử dụng, đầy đủ biểu mẫu. Nghiên cứu của Kiều Quang Phát, năm 2020 tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ cũng cho thấy vấn đề này [18].
Đào tạo, tập huấn về báo cáo sự cố y khoa
Việc đào tạo, tập huấn chưa được truyền tải kiến thức đến từng NVYT, để NVYT nắm được quy trình quản lý SCYK, nhận diện được SCYK và báo cáo SCYK là yếu tố quan trọng thúc đẩy báo cáo SCYK. Nghiên cứu của nhóm tác giả Gidey K, Seifu M, Hailu BY, Asgedom SW, Niriayo YL, năm 2020, tại bệnh viện ở vùng Ethiopia cho thấy, thiếu đào tạo là những yếu tố dự báo cho việc thực hành báo cáo sự cố kém, cần đào tạo tập huấn cho tất cả NVYT, đặc biệt là NVYT chưa từng được đào tạo.[10, tr.e034553]
Động viên khuyến khích báo cáo sự cố
Theo nghiên cứu của tác giả Naome T, James M, Christine A, Mugisha TI, năm 2020 tại bệnh viện khu vực Mbarara cho thấy, hơn một nửa (59,5%) NVYT đồng ý rằng việc có kiến thức để phát hiện sự cố, biết báo cáo sự cố về đâu ảnh hưởng đến việc tuân thủ báo cáo sự cố và NVYT không bao giờ báo cáo sự cố vì họ sợ bị chấm dứt công việc, sợ đồng nghiệp chê không có chuyên môn [17, tr.276]. Vì vậy cần phải trang bị cho NVYT kiến thức nhận diện được SCYK, biết cách báo cáo sự cố và có cơ chế động viên khuyến khích tạo không khí cởi mở để NVYT xoá bỏ tâm lý sợ sệt khi báo cáo.
Lãnh đạo Bệnh viện có cơ chế khuyến khích khi NVYT tự nguyện báo cáo SCYK sẽ không bị trừ thi đua, trừ thưởng cuối tháng, động viên khuyến khích NVYT tự nguyện báo cáo SCYK trên giao ban viện, đảm bảo luôn giữ bí mật cho cá nhân, tập thể tự nguyện báo cáo sự cố. Nghiên cứu của Kiều Quang Phát, năm 2020, tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Phú Thọ, đã có văn bản khuyến khích NVYT báo cáo sự cố, khi NVYT tự nguyện báo cáo sự cố được thưởng 50.000 đồng/1 báo cáo.[18]
Các nghiên cứu trong nước cũng ghi nhận điều tương tự. Khảo sát ngẫu nhiên 202 NVYT tại BV ĐKKV Cai Lậy ghi nhận: Có 8 lý do chủ yếu làm cho NVYT ít tự nguyện báo cáo SC-SS: Thủ tục báo cáo phiền hà, tốn thời gian; Sợ mất điểm, bị phê bình, bị nêu tên trên giao ban; Sợ bị ảnh hưởng đồng nghiệp; Thấy báo cáo rồi cũng không cải thiện; Bao che nhau (Không nói vì hôm nay là đồng nghiệp sai sót, lỡ ngày mai tới mình); Báo cáo cũng không thấy lợi ích gì; Thấy chuyện xảy ra nhỏ, không nghĩ sai sót, không cần báo cáo, chiếm tỷ lệ từ 20% đến gần 50%, ĐTB từ 2,83 đến 3,26.[4]
Nhận định về nguyên nhân xảy ra sự cố, sai sót, NVYT cho rằng xảy là do: Yếu tố điều kiện môi trường, cơ sở vật chất; Ý thức con người; Hệ thống mạng LAN; Giao tiếp của NVYT. Chiếm tỷ lệ từ 20% đến gần 48%, ĐTB từ 2,58 đến 3,26.[4]
Ý kiến đề xuất của NVYT để tăng cường báo cáo tự nguyện SC-SS chính là cần có sự an toàn, cần được bảo vệ. Được lời khen thưởng khi nhân viên tự giác báo sự cố và đồng thời không bị nêu tên khi xảy ra sự cố, chiếm tỷ lệ Từ 20,6% đến 48,1%.[4]
V. KẾT LUẬN
Trong năm 2024, có 300 báo cáo sự cố được ghi nhận với sự đa dạng về loại hình, đối tượng và nội dung, trong đó 100% là báo cáo tự nguyện, điều dưỡng, KTV, Hộ sinh là nhóm báo casco chủ yếu chiếm 78,3% tổng báo cáo. Phần lớn sự cố xảy ra trên người bệnh (45,67%) và NVYT (42%). 96,4% số sự cố là sự cố đã xảy ra, nhưng chủ yếu là chưa gây nguy hại (96,1%). Thực hiện quy trình kỹ thuật là nhóm xảy ra sự cố chủ yếu chiếm 33,3%, tiếp đến là hạ tầng cơ sở, quản lý nguồn lực và thiết bị y tế.
Phần lớn NVYT có nhận thức tốt về bác cáo sự cố. Kiến thức đúng về mcuj đích của báo cáo, hệ thống báo cáo, người có trách nhiệm báo cáo, xử lý các tình huống báo cáo đều đạt từ 80-100%.
Hầu hết NVYT có thái độ tích cực về báo cáo sự cố như thái độ về khả năng xảy ra sự cố, khả năng hạn chế sự cố, sự cần thiết của tuân thủ quy trình kỹ thuật, trách nhiệm của NVYT trong báo cáo và sự cần thiết của việc nâng cao nhận thức về ATNB
Các rào cản trong báo cáo sự cố được ghi nhận là tâm lý e ngại ((sợ bị kỷ luật, sợ đồng nghiệp ghét, sợ Ban chủ nhiệm khoa…) chiếm 52,6%, không có thời gian để báo cáo chiếm 32,2% và báo cáo mà không nhận được phản hồi.
Thời gian báo cáo sự cố chủ yếu đúng quy định với 67,3% được báo cáo ngay trong ngày khi sự cố được phát hiện.
Khuyến nghị
Tiếp tục thiết lập môi trường văn hóa an toàn người bệnh trong cơ sở y tế, đảm bảo sự an toàn cho người báo cáo, khen thưởng động viên người báo cáo để xóa tâm lý e ngại. Hoàn thiện quy trình báo cáo nhanh, gọn, dễ dàng để không mất thời gian của người báo cáo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Y tế (2013), Thông tư số 01/2013/TT-BYT, ngày 11 tháng 01 năm 2013 Hướng dẫn thực hiện quản lý chất lượng xét nghiệm tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh., chủ biên.
2. Bộ Y tế (2018), Thông tư số 43/2018/TT-BYT, ngày 26 tháng 12 năm 2028, Hướng dẫn phòng ngừa sự cố y khoa trong các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh., chủ biên.
3. Dung DP. Kiến thức, thái độ, thực hành của nhân viên y tế về khai báo sự cố y khoa bằng QR code tại bệnh viện da liễu trung ương năm 2021 và một số yếu tố liên quan. , Trường Đại học Thăng Long (2021).
4. Nguyễn Thị Mỹ Linh (2017), "Những rào cản ảnh hưởng đến công tác báo cáo tự nguyện sự cố, sai sót của nhân viên y tế tại bệnh viện đa khu vực cai lậy, năm 2017", Y Học TP. Hồ Chí Minh 22(4).
5. Nguyễn Thị Thu Hà (2019), Thực trạng báo cáo sự cố y khoa và một số yếu tố ảnh hưởng tại bệnh viện Việt Nam – Thụy điển Uông bí giai đoạn 2013 – 2018. , Đại học Y tế Công cộng, Hà Nội.
6. Nguyễn Thị Thu Hiền (2021), Kiến thức, thái độ, thực hành báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình năm 2020 và một số yếu tố ảnh hưởng. , Luận văn thạc sĩ quản lý bệnh viện, , Trường Đại học Y tế công cộng.
7. Trần Thị Bích Bo (2017), Kiến thức, thái độ, hành vi báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế tại các khoa lâm sàng Bệnh viện quận Thủ Đức năm 2017 và một số yếu tố ảnh hưởng. , Trường Đại học Y tế công cộng.
8. R. E. Culbreth và các cộng sự. (2021), "Associations between safety perceptions and medical error reporting among neonatal intensive care unit staff", J Clin Nurs. 30(21-22), tr. 3230-3237.
9. N. Dhingra-Kumar, S. Brusaferro và L. Arnoldo (2021), "Patient Safety in the World", trong L. Donaldson và các cộng sự., chủ biên, Textbook of Patient Safety and Clinical Risk Management, Springer Copyright 2021, The Author(s). Cham (CH), tr. 93-8.
10. K. Gidey và các cộng sự. (2020), "Healthcare professionals knowledge, attitude and practice of adverse drug reactions reporting in Ethiopia: a cross-sectional study", BMJ Open. 10(2), tr. e034553.
11. M. L. Graber, N. Franklin và R. Gordon (2005), "Diagnostic error in internal medicine", Arch Intern Med. 165(13), tr. 1493-9.
12. M. A. Makary và M. Daniel (2016), "Medical error-the third leading cause of death in the US", Bmj. 353, tr. i2139.
13. Phí Hà và các cộng sự. (2024), thực trạng báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện sản nhi tỉnh quảng ninh năm 2023", Tạp chí Y học Cộng đồng. 65.
14. Nguyễn Hồng và các cộng sự. (2025), kiến thức, thái độ và thực hành về báo cáo sự cố y khoa của điều dưỡng, hộ sinh tại một số khoa lâm sàng bệnh viện đa khoa quốc tế vinmec times city năm 2025", Tạp chí Y học Cộng đồng.
15. Thúy Huê Lữ và Hsuesh Shu-Chun (2024), "kiến thức, thái độ, hành vi của nhân viên y tế về báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện từ dũ", Tạp chí Y học Việt Nam. 539(3).
16. Hao Mai Xuan (2022), "Quản lý sự cố y khoa tại Bệnh viện Trung ương Huế để nâng cao chất lượng điều trị và chăm sóc bệnh nhân", Journal of Clinical Medicine- Hue Central Hospital.
17. Turyahabwe Naome và các cộng sự. (2020), "Practice, perceived barriers and motivating factors to medical-incident reporting: a cross-section survey of health care providers at Mbarara regional referral hospital, southwestern Uganda", BMC Health Services Research. 20(1), tr. 276.
18. Kiều Quang Phát và các cộng sự. (2021), "báo cáo sự cố y khoa tại bệnh viện đa khoa tỉnh phú thọ năm 2020", Tạp chí Y học Việt Nam. 503(1).
19. Thắng PQ và các cộng sự. (2021), "Kiến thức và thái độ về báo cáo sự cố Y khoa của nhân viên y tế tại Bệnhviện Đa khoa tỉnh Gia Lai năm 2021. Tạp chí Khoa học Nghiên cứu Sức khỏe và Phát triển 6(01), tr. 84-91.
20. Trần Doãn Hiếu và các cộng sự. (2022), " Nghiên cứu kiến thức, thái độ về sự cố y khoa của điều dưỡng và hộ sinh tại Bệnh viện Trường Đại học Y - Dược Huế năm 2019. ", Tạp chí Y Dược học,. 110.
Tin mới
-
Béo phì không còn là vấn đề thẩm mỹ mà chính thức được nhiều tổ chức y tế...12/12/2025 12:44
-
Kiến thức, thái độ về dự phòng và xử trí phản vệ của điều dưỡng, kỹ thuật viên tại các khoa Lâm sàng, Cận lâm sàng Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024
Nghiên cứu: Kiến thức, thái độ về dự phòng và xử trí phản vệ của điều dưỡng, kỹ...12/12/2025 11:14 -
Thực trạng môi trường thực hành chăm sóc và mức độ kiệt sức của điều dưỡng Bệnh viện Nguyễn Trãi
Nghiên cứu: Thực trạng môi trường thực hành chăm sóc và mức độ kiệt sức của điều dưỡng...12/12/2025 11:40 -
Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân xơ gan điều trị tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới - Bệnh Viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An
Nghiên cứu: Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân xơ gan...12/12/2025 11:45 -
Đột phá vNOTES: Kỹ thuật nội soi mới giúp giảm nguy cơ ung thư cổ tử cung, hồi phục nhanh
Các bệnh viện lớn trong nước bắt đầu triển khai thành công vNOTES – kỹ thuật nội soi...12/12/2025 10:16 -
Thực trạng giáo dục sức khỏe người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Tháp năm 2025
Nghiên cứu: Thực trạng giáo dục sức khỏe người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa Đồng...12/12/2025 10:56 -
Ra mắt chương trình truyền thông quốc gia thúc đẩy tiêm chủng trọn đời giai đoạn 2025–2027
Bộ Y tế ra mắt Chương trình truyền thông – giáo dục sức khỏe về phòng bệnh bằng...12/12/2025 10:29 -
Sáng kiến: Tạo máy đếm số giọt dịch truyền
Sáng kiến: Tạo máy đếm số giọt dịch truyền do Huỳnh Minh Dương, Nguyễn Chí Tâm đề xuất.12/12/2025 10:36 -
Bệnh viện tuyến tỉnh thứ hai làm chủ vi phẫu tái tạo khuyết hổng lớn vùng hàm mặt từ vạt tự do
Bệnh viện Đa khoa Thái Bình (Hưng Yên) trở thành đơn vị tuyến tỉnh thứ hai cả nước...12/12/2025 09:42 -
Tác động của sự tin tưởng nhân viên y tế tới chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở người bệnh ung thư gan điều trị nút mạch vi cầu tại Bệnh viện TWQĐ 108
Nghiên cứu: Tác động của sự tin tưởng nhân viên y tế tới chất lượng cuộc sống và...12/12/2025 09:04 -
Kiến thức và thực hành chăm sóc catheter tĩnh mạch rốn cho trẻ sơ sinh của điều dưỡng và một số yếu tố liên quan tại Phòng Chăm sóc đặc biệt - Trung tâm Nhi khoa, Bệnh Vvện Trung ương Thái Nguyên
Nghiên cứu: Kiến thức và thực hành chăm sóc catheter tĩnh mạch rốn cho trẻ sơ sinh của...12/12/2025 09:45 -
Đánh giá nhận thức về nghề điều dưỡng và căng thẳng trong học tập của sinh viên điều dưỡng Trường Cao đẳng Y tế Huế
Nghiên cứu: Đánh giá nhận thức về nghề điều dưỡng và căng thẳng trong học tập của sinh...12/12/2025 09:43 -
Kiến thức, thái độ và thực trạng về báo cáo sự cố y khoa của nhân viên y tế Bệnh viện Đa khoa Mê Linh Năm 2025
Nghiên cứu: Kiến thức, thái độ và thực trạng về báo cáo sự cố y khoa của nhân...12/12/2025 09:44 -
Đánh giá kiến thức, kỹ năng của người chăm sóc đối với bệnh nhi hen phế quản đang điều trị tại bệnh viện Trường Đại Học Y Dược Huế
Nghiên cứu: Đánh giá kiến thức, kỹ năng của người chăm sóc đối với bệnh nhi hen phế...12/12/2025 09:28














