Kiến thức của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch về dự phòng và xử trí phản vệ
TÓM TẮT
Mục tiêu: mô tả kiến thức của sinh viên điều dưỡng chínăm thứ ba (khóa 2022), năm thứ tư (khóa 2021) trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch về dự phòng và xử trí phản vệ..
Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang, chọn mẫu toàn bộ gồm 148 sinh viên điều dưỡng trong thời gian từ 03/09 đến 29/11/2024. Dữ liệu được thu thập bằng bộ câu hỏi có độ tin cậy được kiểm định, xử lý phần mềm SPSS 20.0 để phân tích số liệu.
Kết quả: Khảo sát trên 148 sinh viên về kiến thức liên quan đến dự phòng và xử trí phản vệ cho thấy: 96,6% SV có kiến thức chung đúng; 70,9% có kiến thức đúng về các biện pháp dự phòng phản vệ đúng và 56,8% sinh viên có kiến thức đúng về xử trí và theo dõi phản vệ. Sinh viên cử nhân điều dưỡng khóa 2021 (năm thứ tư) có tỷ lệ kiến thức đúng về dự phòng, xử trí và theo dõi phản vệ cao hơn sinh viên khóa 2022 (năm thứ ba).
Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỉ lệ sinh viên có kiến thức chung về dự phòng và xử trí phản vệ đúng là tương đối cao đặc biệt là kiến thức chung (96,6%) và kiến thức dự phòng (70,9%). Tuy nhiên, tỉ lệ sinh viên nắm vững kiến thức đúng về xử trí và theo dõi phản vệ còn hạn chế (56,8%). Ngoài ra, sự khác biệt đáng kể giữa sinh viên năm tư và năm ba cho thấy mức độ tiếp cận kiến thức và kinh nghiệm học tập theo thời gian học tập có ảnh hưởng tích cực đến hiểu biết về phản vệ.
Từ khóa: Kiến thức, dự phòng, xử trí, phản vệ, sinh viên điều dưỡng.
ABSTRACT
Objective: This study aims to survey and describe the knowledge of third-year (cohort 2022) and fourth-year (cohort 2021) full-time undergraduate nursing students at Pham Ngoc Thach University of Medicine regarding the prevention and management of anaphylaxis.
Methods: This is a cross-sectional descriptive study using a convenient random sampling method, involving a total of 148 undergraduate nursing students. The data collection was conducted from September 3 to November 29, 2024, using a structured questionnaire that had been validated for reliability. Data were processed using SPSS version 20.0 software. Descriptive statistics (frequency, percentage) and T-test were employed for data analysis.
Results: The survey of 148 students regarding knowledge related to the prevention and management of anaphylaxis revealed the following findings: 96.6% of students had correct general knowledge about anaphylaxis; 70.9% had correct knowledge about preventive measures for anaphylaxis; 56.8% had correct knowledge about the management and monitoring of anaphylaxis.
Fourth-year nursing students (cohort 2021) had a higher rate of correct knowledge in prevention, management, and monitoring of anaphylaxis compared to third-year students (cohort 2022).
Conclusions: The study results indicate that the proportion of students possessing correct general knowledge about the prevention and management of anaphylaxis is relatively high, particularly in terms of general knowledge (96.6%) and knowledge of preventive measures (70.9%). However, the proportion of students with correct knowledge about the management and monitoring of anaphylaxis remains limited (56.8%). Additionally, the significant difference between fourth-year and third-year students suggests that the level of access to knowledge and learning experience over time has a positive impact on understanding anaphylaxis. Fourth-year students demonstrated a significantly higher level of correct understanding regarding prevention, management, and monitoring of anaphylaxis compared to third-year students.
Objective: To describe the knowledge of third-year (Class of 2022) and fourth-year (Class of 2021) nursing students at Pham Ngoc Thach University of Medicine regarding the prevention and management of anaphylaxis.
Methodology: A cross-sectional study design was employed, with total sampling involving 148 nursing students conducted from September 3 to November 29, 2024. Data were collected using a validated questionnaire, and analyzed using SPSS version 20.0.
Results: Among the 148 students surveyed, 96.6% demonstrated correct general knowledge of anaphylaxis; 70.9% had accurate knowledge regarding preventive measures, and 56.8% possessed correct understanding of the management and monitoring of anaphylaxis. Fourth-year students (Class of 2021) showed a higher proportion of correct knowledge concerning prevention, management, and monitoring compared to third-year students (Class of 2022).
Conclusion: The findings indicate a relatively high proportion of students with accurate general knowledge on anaphylaxis prevention and management, particularly in general knowledge (96.6%) and prevention (70.9%). However, the percentage of students with adequate knowledge regarding anaphylaxis management and follow-up remains limited (56.8%). Furthermore, the notable differences between third- and fourth-year students suggest that academic progression and accumulated clinical experience positively influence understanding of anaphylaxis.
Keywords: Knowledge, prevention, management, anaphylaxis, nursing students.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phản vệ là một phản ứng dị ứng nghiêm trọng, có thể khởi phát sau vài giây, vài phút hoặc vài giờ sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên, gây ra các biểu hiện lâm sàng đa dạng và có thể tiến triển nhanh chóng đến tử vong nếu không được xử trí kịp thời [1]. Do đó cấp cứu phản vệ đòi hỏi sự khẩn trương, chính xác và đúng phác đồ nhằm giảm thiểu biến chứng và tỷ lệ tử vong. Để đạt được hiệu quả trong xử trí, người điều dưỡng cần có kiến thức vững chắc về dự phòng và xử trí phản vệ [5].
Trong bối cảnh sinh viên điều dưỡng ngày càng tham gia trực tiếp vào chăm sóc người bệnh tại các cơ sở lâm sàng, kiến thức về phản vệ đóng vai trò then chốt trong đảm bảo an toàn người bệnh. Một nghiên cứu tại Thái Lan (2023) cho thấy chỉ 58% sinh viên điều dưỡng có kiến thức đúng về xử trí phản vệ; đa số gặp khó khăn trong việc xác định liều và đường dùng Adrenalin trong tình huống cấp cứu [8]. Tại Malaysia, nghiên cứu năm 2022 ghi nhận sinh viên có kiến thức chung tương đối tốt, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế trong dự phòng và xử trí phản vệ [10]. Tổng quan hệ thống năm 2021 chỉ ra tỷ lệ phản vệ toàn cầu đang gia tăng, trong đó thuốc và thực phẩm là nguyên nhân hàng đầu. Các biện pháp dự phòng hiệu quả bao gồm đào tạo bài bản cho sinh viên điều dưỡng và cập nhật phác đồ điều trị thường xuyên [4]. Tại Việt Nam, nghiên cứu của Vũ Thị Là và cộng sự cho thấy tỷ lệ sinh viên điều dưỡng có kiến thức đúng về phản vệ còn chưa đồng đều: 63,63% hiểu đúng kiến thức chung, 61% về dự phòng, và 66,36% về xử trí và theo dõi [3]. Nhằm chuẩn hóa công tác phòng ngừa và xử trí phản vệ, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số 51/2017/TT-BYT hướng dẫn thống nhất trong chẩn đoán, xử trí và dự phòng phản vệ [1].
Kiến thức về dự phòng và xử trí phản vệ đóng vai trò thiết yếu không chỉ đối với điều dưỡng hành nghề mà còn đối với sinh viên điều dưỡng. Việc nắm vững kiến thức giúp phát hiện sớm và xử trí đúng quy trình có thể giúp 40,9% bệnh nhân chấm dứt tình trạng dị ứng trước khi phản vệ xuất hiện, và 59,1% bệnh nhân phản vệ phục hồi hoàn toàn không để lại di chứng. Ngược lại, nếu điều dưỡng thiếu kiến thức, không phát hiện kịp thời và xử trí không đúng quy trình thì nguy cơ tử vong lên đến 71,4%, và 28,6% bệnh nhân sẽ gặp biến chứng suy đa cơ quan [2]. Xuất phát từ thực tiễn trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “Kiến thức của sinh viên điều dưỡng trường Đại học Y Khoa Phạm Ngọc Thạch về dự phòng và xử trí phản vệ”. nhằm mục tiêu: (i) mô tả kiến thức của sinh viên điều dưỡng năm thứ ba (khóa 2022), năm thứ tư (khóa 2021) trường đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch về dự phòng và xử trí phản vệ; (ii) So sánh kiến thức dự phòng và xử trí phản vệ của sinh viên điều dưỡng năm thứ ba và năm thứ tư.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Thời gian từ 03/09/2024 đến 29/11/2024
Địa điểm tại Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch.
Đối tượng nghiên cứu
Sinh viên điều dưỡng.
Tiêu chuẩn lựa chọn
- Đang theo học khóa 2022 (sinh viên năm ba) và khóa 2021 (sinh viên năm tư)
- Tự nguyện tham gia vào nghiên cứu.
Tiêu chuẩn loại trừ
- Sinh viên vắng mặt trong thời gian tiến hành khảo sát.
- Sinh viên không trả lời hết các câu hỏi.
Cỡ mẫu
Chọn mẫu toàn bộ. Tổng số có 148 sinh viên tham gia nghiên cứu (103 sinh viên năm 3 và 45 sinh viên năm tư)
Công cụ thu thập số liệu
Thu thập số liệu được thực hiện thông qua bộ câu hỏi (BCH) gồm 4 phần:
- Phần A: Thông tin đối tượng nghiên cứu với 3 câu hỏi về giới tính, lớp học, và kinh nghiệm chứng kiến phản vệ thực tế.
- Phần B: Kiến thức chung về phản vệ, sử dụng BCH của Vũ Thị Là [3], Cronbach’s alpha = 0,86. Gồm 7 câu hỏi trắc nghiệm (1 đáp án đúng), nội dung liên quan đến nguyên nhân, mức độ, triệu chứng lâm sàng và thời gian xuất hiện phản vệ. Thang điểm từ 0–7; đạt từ 5 điểm trở lên được xem là có kiến thức đúng.
- Phần C: Kiến thức về dự phòng phản vệ, cũng sử dụng BCH của Vũ Thị Là [3], Cronbach’s alpha = 0,86. Gồm 5 câu hỏi về sử dụng Adrenalin, thuốc và trang thiết bị trong hộp phản vệ, khai thác tiền sử thuốc, và vai trò của cơ sở y tế. Thang điểm 0–5; đạt từ 4 điểm trở lên là có kiến thức đúng.
- Phần D: Kiến thức xử trí và theo dõi phản vệ, sử dụng BCH của Vũ Thị Là [3], Cronbach’s alpha = 0,86. Gồm 12 câu hỏi về nguyên tắc cấp cứu, sử dụng và pha loãng Adrenalin, thời gian theo dõi, và liều dùng theo độ tuổi. Thang điểm 0–12; đạt từ 9 điểm trở lên được đánh giá là có kiến thức đúng.
Quy trình thu thập số liệu
- Nghiên cứu viên (NCV) trao đổi với cố vấn học tập (CVHT) lớp CNĐD 2022 và CNĐD 2021 về nội dung và mục tiêu của nghiên cứu. Sau khi nhận được sự đồng ý của CVHT 2 lớp.
- NCV tiếp cận sinh viên mời tham gia nghiên cứu. SV đồng ý sẽ ký vào phiếu chấp thuận tham gia.
- Thời gian hoàn thành BCH từ 20 phút đến 30 phút. NCV phát phiếu, hướng dẫn cách điền, và hỗ trợ khi cần thiết.
- Sau khi SV hoàn thành, NCV kiểm tra tính đầy đủ và gửi lời cảm ơn
Đạo đức trong nghiên cứu
Nghiên cứu tuân thủ nghiêm túc mọi quy định của nghiên cứu y sinh học. Dữ liệu thu thập được chỉ phục vụ mục đích nghiên cứu.
Xử lý và phân tích số liệu
Nghiên cứu viên rà soát kỹ lưỡng từng phiếu trả lời của SV.. Dữ liệu sau khi thu thập được làm sạch, mã hóa và nhập vào phần mềm SPSS 20.0 để phân tích bằng phương pháp thống kê y học. Thống kê mô tả (tần suất, tỷ lệ %) được sử dụng để trình bày đặc điểm thông tin và kiến thức về phòng, xử trí phản vệ. Phép kiểm t (t-test) được áp dụng để so sánh kiến thức giữa sinh viên điều dưỡng khóa 2021 và 2022.
3. KẾT QUẢ
3.1 Đặc điểm đối tượng tham gia nghiên cứu
Bảng 3.1 Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=148)
Đặc điểm |
N |
% |
|
Giới tính |
Nữ |
119 |
80,4 |
Nam |
29 |
19,6 |
|
Lớp |
CNĐD 2021 |
45 |
30,4 |
CNĐD 2022 |
103 |
69,6 |
|
Bạn có thấy phản vệ trên thực tế |
Có |
44 |
29,7 |
Không |
104 |
70,3 |
Nhận xét: Đối tượng tham gia nghiên cứu đa số là nữ chiếm 80,4% và sinh viên điều dưỡng khóa 2022 chiếm 69,6%. Có 29,7% sinh viên từng chứng kiến phản vệ trên thực tế.
3.2 Kiến thức về phản vệ
Bảng 3.2 Kiến thức chung về phản vệ của đối tượng nghiên cứu (n=148)
TT |
Nội dung câu hỏi |
Đúng |
|
N |
% |
||
B1 |
Khái niệm phản vệ |
147 |
99,3 |
B2 |
Nguyên nhân gây phản vệ |
146 |
98,6 |
B3 |
Mức độ phản vệ |
107 |
72,3 |
B4 |
Đặc điểm phản vệ trên lâm sàng |
134 |
90,5 |
B5 |
Các triệu chứng gợi ý |
144 |
97,3 |
B6 |
Thời gian xuất hiện triệu chứng |
146 |
98,6 |
B7 |
Xác định mức độ phản vệ của người bệnh qua tình huống |
89 |
60,1 |
|
Kiến thức chung đúng về phản vệ |
143 |
96,6 |
Nhận xét: Có 96,6% SV có kiến thức chung về phản vệ đúng. Hầu hết sinh viên đều trả lời đúng khái niệm, nguyên nhân, đặc điểm, các triệu chứng gợi ý và thời gian xuất hiện triệu chứng. Tuy nhiên, 72,3% SV trả lời đúng về mức độ phản vệ và 60,1% xác định đúng mức độ phản vệ qua tình huống.
Bảng 3.3 Kiến thức về dự phòng phản vệ của đối tượng nghiên cứu (n=148)
TT |
Nội dung câu hỏi |
Đúng |
|
N |
% |
||
C1 |
Cơ số thuốc Adrenalin |
95 |
64,3 |
C2 |
Tên thuốc mới bổ sung |
73 |
49,3 |
C3 |
Trang thiết bị và thuốc tối thiểu cần để cấp cứu phản vệ |
138 |
93,2 |
C4 |
Để phòng và chống phản vệ cơ sở y tế cần thực hiện |
144 |
97,3 |
C5 |
Cách khai thác tiền sử thuốc |
144 |
97,3 |
|
Kiến thức dự phòng phản vệ đúng |
105 |
70,9 |
Nhận xét: Sinh viên có kiến thức dự phòng phản vệ đúng chiếm 70,9%. Tỷ lệ sinh viên trả lời đúng về cơ số thuốc Adrenalin (64,3%) và tên thuốc mới bổ sung (49,3%) thấp.
Bảng 3.4 Kiến thức về xử trí và theo dõi phản vệ của đối tượng nghiên cứu (n=148)
TT |
Nội dung câu hỏi |
Đúng |
|
N |
% |
||
D1 |
Nguyên tắc cấp cứu phản vệ |
127 |
85,8 |
D2 |
Cấp cứu phản vệ mức độ nặng và nguy kịch |
131 |
88,5 |
D3 |
Cấp cứu phản vệ nhẹ |
106 |
71,6 |
D4 |
Đường tiêm Adrenalin khi gặp phản vệ độ 2 |
119 |
80,4 |
D5 |
Liều Adrenalin cho người lớn khi tiêm bắp |
88 |
59,5 |
D6 |
Liều Adrenalin cho trẻ 10kg khi tiêm bắp |
53 |
35,8 |
D7 |
Thời gian tiêm nhắc lại Adrenalin |
99 |
66,9 |
D8 |
Cách pha loãng Adrealin (1/10000) để tiêm TMC |
85 |
57,4 |
D9 |
Cách pha loãng Adrenalin để truyền tĩnh mạch |
50 |
33,8 |
D10 |
Liều Adrenalin 1/10000 trong tiêm TMC cho người lớn |
106 |
71,6 |
D11 |
Thời gian theo dõi sau khi tiêm adrenalin khi sinh hiệu chưa ổn định |
105 |
70,9 |
D12 |
Thời gian theo dõi tối thiểu |
117 |
79,1 |
|
Kiến thức xử trí và theo dõi phản vệ đúng |
84 |
56,8 |
Nhận xét: Có 56,8% sinh viên có kiến thức đúng về xử trí và theo dõi phản vệ. Trong đó cách pha loãng Adrenalin để truyền tĩnh mạch (33,8%) và liều adrenalin cho trẻ 10kg khi tiêm bắp (35,8%).
3.5 So sánh kiến thức dự phòng và xử trí phản vệ của sinh viên khóa 2022 và khóa 2021
Bảng 3.5: So sánh kiến thức phản vệ của đối tượng nghiên cứu
|
Lớp |
N |
Mean |
T |
df |
P |
Kiến thức chung |
CNĐD 2021 |
45 |
0,96 |
-0,98 |
146 |
0,07 |
CNĐD2022 |
103 |
0,98 |
||||
Kiến thức dự phòng |
CNĐD 2021 |
45 |
0,87 |
5,33 |
146 |
0,012 |
CNĐD2022 |
103 |
0,47 |
||||
Kiến thức xử trí và theo dõi |
CNĐD 2021 |
45 |
0,62 |
1,66 |
146 |
0,036 |
CNĐD 2022 |
103 |
0,48 |
Nhận xét: Có sự khác biệt về ý nghĩa thống kê về kiến thức dự phòng phản vệ (t=5,33, p<0,05), kiến thức xử trí và theo dõi phản vệ (t=1,66, p<0,05). Kiến thức về dự phòng và xử trí phản vệ của SV khóa 2021 có điểm trung bình cao hơn rõ rệt (Mean=0,87) và (Mean=0,62) so với SV khóa 2022, phản ánh kiến thức dự phòng về xử trí, theo dõi phản vệ của SV năm thứ tư cao hơn sinh viên năm thứ ba.
4.BÀN LUẬN
Kiến thức chung về phản vệ
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sinh viên có kiến thức chung đúng về phản vệ là 96,6% cao hơn nghiên cứu của Vũ Thị Là (63,63%) và cao hơn nghiên cứu của Drupad (56,9%) và nghiên cứu của Hân (54,3%) [4,5,6].
Tỷ lệ xác định mức độ phản vệ của người bệnh qua tình huống lâm sàng cho trước của sinh viên là 60,1% thấp hơn nghiên cứu của Vũ Thị Là (68,18%) điều này cũng có thể lý giải vì nghiên cứu của Vũ Thị Là chỉ thực hiện trên SVĐD chính quy năm cuối. Sinh viên năm cuối có kiến thức về phản vệ cao hơn vì đã đi thực tập tại các khoa hồi sức và cấp cứu của các bệnh viện lớn [3,9].
Kiến thức về phòng phản vệ
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SV có kiến thức về phòng phản vệ là 70,9% cao hơn nghiên cứu của Vũ Thị Là (61%) và cao hơn nghiên cứu của Drupad (35,38%) [3,5].
Tỷ lệ SV có kiến thức đúng về thuốc Adrenalin (64,3%) và tên thuốc mới bổ sung (49,3%) thấp hơn nghiên cứu của Vũ Thị Là (72,72%, 100%) điều này có thể lý giải vì nghiên cứu của Vũ Thị Là chỉ thực hiện trên sinh viên điều dưỡng năm cuối. Sinh viên điều dưỡng năm cuối có kiến thức về phản vệ cao hơn vì đã đi thực tập tại các khoa hồi sức và cấp cứu của các bệnh viện lớn [8].
Kiến thức về xử trí và theo dõi phản vệ
SV có kiến thức xử trí và theo dõi phản vệ đúng chiếm 56,8% thấp hơn nghiên cứu của Vũ Thị Là (66,36%) và nghiên cứu của Nuntachit (74,3%) [3,8].
Tỷ lệ SV trả lời đúng về cách pha loãng Adrenalin để tiêm truyền tĩnh mạch (33,8%) thấp hơn của Vũ Thị Là (70,1%). Tỷ lệ SVĐD trả lời đúng về thời gian tiêm nhắc lại Adrenalin (66,9%) thấp hơn nghiên cứu của Vũ Thị Là (86,36%) và nghiên cứu của Noh (84,7%) [3,7]. Sự khác biệt này có thể xuất phát từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu. Cụ thể, cả hai nghiên cứu kể trên đều được thực hiện trên sinh viên năm cuối, nhóm đối tượng đã trải qua nhiều đợt học lâm sàng và được tiếp cận với các tình huống cấp cứu thực tế, do đó sinh viên năm tư có nền tảng kiến thức và kỹ năng thực hành phong phú hơn so với sinh viên năm ba.
So sánh kiến thức phòng và xử trí phản vệ của sinh viên Cử nhân Điều dưỡng khóa 2022 và khóa 2021
Kết quả nghiên cứu cho thấy, sinh viên điều dưỡng khóa 2021 (năm ba) có kiến thức về phòng và xử trí phản vệ tốt hơn sinh viên điều dưỡng khóa 2022 (năm tư). Điều này có thể hiểu, sinh viên điều dưỡng năm tư có thời gian học tập trên giảng đường và trên lâm sàng dài hơn SVĐD năm ba. SVĐD năm tư đã đi thực tập tại các khoa hồi sức và cấp cứu của các bệnh viện lớn cũng như đã trãi qua kỳ thực tế tốt nghiệp nên khối lượng kiến thức và kinh nghiệm nhiều hơn sinh viên điều dưỡng năm ba.
5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Kết quả khảo sát 148 sinh viên cho thấy: 96,6% có kiến thức đúng về phản vệ nói chung, 70,9% có kiến thức đúng về dự phòng và 56,8% có kiến thức đúng về xử trí và theo dõi phản vệ. Sinh viên điều dưỡng khóa 2021 đạt kết quả cao hơn so với khóa 2022 ở cả hai lĩnh vực: dự phòng và xử trí phản vệ.
Từ kết quả nghiên cứu, chúng tôi khuyến nghị: (i) Cập nhật chương trình đào tạo, đặc biệt nhấn mạnh các nội dung còn thiếu hoặc chưa rõ ràng, như liều tiêm bắp Adrenalin và kỹ thuật pha loãng thuốc an toàn; (ii) Tổ chức thường xuyên các buổi hội thảo chuyên đề về sử dụng Adrenalin trong lâm sàng, nhằm củng cố kiến thức thực hành và nâng cao khả năng ứng phó trong tình huống khẩn cấp; (iii) Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng cách tích hợp công nghệ đa phương tiện, đặc biệt là video mô phỏng cấp cứu phản vệ, giúp sinh viên tiếp cận kiến thức trực quan và hiệu quả hơn.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Bộ Y tế (2017), Thông tư số 51/2017/ TT-BYT, Hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ.
- Đào Xuân Cơ (2016), “Cập nhật cấp cứu phản vệ khoa Hồi sức tích cực Bệnh viện Bạch Mai”, hội nghị tim mạch toàn quốc 2016, tr.15–21.
- Vũ Thị Là và cộng sự (2019), “kiến thức dự phòng và xử trí phản vệ của sinh viên đại học chính quy khóa 10 Trường Đại học điều dưỡng Nam Định”, Tạp Chí Khoa học Điều dưỡng, số 2(3), tr. 11–15.
- Nguyễn Anh Tuấn (2016), Đánh giá hiệu quả điều trị phản vệ theo phác đồ điều trị của khoa hồi sức tích cực bệnh viện Bạch Mai, Luận văn tốt nghiệp bác sĩ chuyên khoa II, 79–80.
- Drupad HS, Nagabushan H, (2015). Level of kwonledge about anaphylaxis and its management among health care providers. Indian J Crit Care Med, số 19(7), tr. 412–415.
- Han TNN, Loretta G, DungTN, Dương TTT (2024), “Unveiling knowledge of anaphylaxis among nursing students”, Nurse Education in Practice, số 19(2), tr. 27–282
- Noh Y, Lee I (2021), “A mixed-methods approach-based study of anaphylaxis awareness and educational needs among nursing students”, International Journal of Environmental Research and Public Health, số 18(17), tr. 280–288.
- Nuntachit T, Sittisak T. (2023). Knowledge and readiness of nursing students in anaphylaxis management: A cross-sectional study in Thailand. Nurse Education Today, số 124 (1), tr. 297–304.
- Phong PT, Đạt TH, Quang PD (2024), “Knowledge of nursing students regarding anaphylaxis: A cross-sectional study in Ho Chi Minh City”, Tạp chí Y học Cộng đồng, số 65(13), tr. 1–6.
- Rahman N., Ahmad M. (2022). Anaphylaxis awareness and first-aid preparedness among undergraduate nursing students in Malaysia. International Journal of Nursing Practice, số 28(1), tr. 129–136.
Tin mới
-
Bài nghiên cứu Thực trạng tuân thủ nguyên tắc “5 đúng” trong sử dụng thuốc của điều dưỡng...14/06/2025 19:29
-
Hỗ trợ xã hội và lo lắng của người bệnh trước Phẫu thuật chương trình tại Khoa Ngoại thần kinh Bệnh viện Nguyễn Tri Phương
Bài nghiên cứu Hỗ trợ xã hội và lo lắng của người bệnh trước Phẫu thuật chương trình...14/06/2025 19:09 -
Thực trạng kiến thức về phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng viên Bệnh viện Phổi Hưng Yên năm 2024 và một số yếu tố liên quan
Bài nghiên cứu Thực trạng kiến thức về phòng ngừa chuẩn của điều dưỡng viên Bệnh viện Phổi...14/06/2025 19:01 -
Kiến thức về bệnh mạch vành của người bệnh tim mạch tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Trà Vinh và một số yếu tố liên quan năm 2024
Bài nghiên cứu Kiến thức về bệnh mạch vành của người bệnh tim mạch tại Bệnh viện Đa...14/06/2025 19:18 -
Trải nghiệm việc huấn luyện phụ huynh có con mắc rối loạn phổ tự kỷ tại Thành phố Hồ Chí Minh
Bài nghiên cứu Trải nghiệm việc huấn luyện phụ huynh có con mắc rối loạn phổ tự kỷ...14/06/2025 18:18 -
Đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại vi sau khi đặt kim luồn tĩnh mạch và một số yếu tố nguy cơ trên người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc
Bài nghiên cứu "Đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại vi sau khi đặt kim luồn tĩnh...14/06/2025 18:36 -
Mô hình bệnh tật và kết quả điều trị người bệnh bắt buộc chữa bệnh tâm thần tại Viện Pháp y tâm thần Trung ương giai đoạn 2018-2022
Bài nghiên cứu "Mô hình bệnh tật và kết quả điều trị người bệnh bắt buộc chữa bệnh...14/06/2025 18:34 -
Kiến thức của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch về dự phòng và xử trí phản vệ
Bài nghiên cứu Kiến thức của sinh viên điều dưỡng Trường Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch...14/06/2025 18:25 -
Kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh suy hô hấp do chậm tiêu dịch phổi tại khoa sơ sinh bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City năm 2021
Bài nghiên cứu Kết quả chăm sóc trẻ sơ sinh suy hô hấp do chậm tiêu dịch phổi...14/06/2025 18:51 -
Thay đổi kiến thức về vận động của người bệnh phẫu thuật thay khớp hàng sau can thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Đa Khoa Nông Nghiệp năm 2022
Bài nghiên cứu "Thay đổi kiến thức về vận động của người bệnh phẫu thuật thay khớp hàng...14/06/2025 18:48 -
Đánh giá mức độ độc lập trong hoạt động chức năng hằng ngày ở người bệnh nhồi máu não tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp năm 2023
Bài nghiên cứu "Đánh giá mức độ độc lập trong hoạt động chức năng hằng ngày ở người...14/06/2025 18:45 -
Cứu sống bé trai 2,5 tuổi bị huyết khối nội sọ do rối loạn chuyển hóa hiếm gặp
Theo Báo Sức khỏe và Đời sống, bé trai 2,5 tuổi mắc huyết khối tĩnh mạch nội sọ,...14/06/2025 16:27 -
Viêm tụy cấp do tăng mỡ máu gấp 100 lần bình thường khi kích trứng làm IVF
Theo Báo Sức khỏe và Đời sống, bệnh viện 19-8 (Bộ Công An) mới đây vừa tiếp nhận...14/06/2025 16:25 -
Thanh Hóa xử phạt hàng loạt cơ sở nha khoa hoạt động ‘chui’
Theo Báo Sức khỏe và Đời sống, lực lượng chức năng tỉnh Thanh Hóa tiến hành kiểm tra,...14/06/2025 16:23