Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân xơ gan điều trị tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới - Bệnh Viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An

Nghiên cứu: Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân xơ gan điều trị tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới - Bệnh Viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mô tả chất lượng cuộc sống (CLCS) và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân xơ gan điều trị tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới – Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An.

Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 111 bệnh nhân xơ gan (12/2024–07/2025). CLCS được đánh giá bằng bộ công cụ SF-36, kết hợp thông tin lâm sàng và cận lâm sàng.

Kết quả: Điểm CLCS trung bình của bệnh nhân xơ gan là 35,38 ± 19,94 (dao động 4–82,85). Trong đó, 56,8% có CLCS trung bình, 41,4% thấp và chỉ 1,8% tốt. CLCS giảm dần theo tuổi (r = -0,204; p = 0,031). Nhóm học vấn dưới THPT có nguy cơ CLCS thấp cao gấp 2,28 lần (p = 0,046), thời gian mắc bệnh >1 năm làm tăng nguy cơ gấp 4,3 lần (p = 0,009), và xơ gan mất bù làm tăng nguy cơ tới 80,6 lần (p < 0,001). Các chỉ số liên quan đến CLCS gồm: albumin huyết tương (p = 0,001), bilirubin toàn phần (p < 0,001), tỷ lệ prothrombin (p = 0,001) và INR (p = 0,002).

Kết luận: Bệnh nhân xơ gan chủ yếu có CLCS thấp và trung bình. Cần tích hợp đánh giá CLCS vào quy trình điều trị, đồng thời tăng cường hỗ trợ dinh dưỡng, tâm lý – xã hội và quản lý nhóm nguy cơ cao.

Từ khóa: Xơ gan, chất lượng cuộc sống, SF-36.

 

ABSTRACT

Objective: To describe the quality of life (QoL) and associated factors among patients with liver cirrhosis treated at the Center for Tropical Diseases, Nghe An Friendship General Hospital.

Methods: A cross-sectional study was conducted on 111 cirrhotic patients (December 2024–July 2025). QoL was assessed using the SF-36 questionnaire along with clinical and laboratory data.

Results: The mean QoL score was 35.38 ± 19.94 (range 4–82.85). Of the patients, 56.8% had moderate QoL, 41.4% poor, and only 1.8% good. QoL decreased with age (r = -0.204; p = 0.031). Patients with education below high school had a 2.28-fold higher risk of poor QoL (p = 0.046); disease duration >1 year increased the risk 4.3 times (p = 0.009); and decompensated cirrhosis increased the risk up to 80.6 times (p < 0.001). Laboratory factors significantly associated with QoL included plasma albumin (p = 0.001), total bilirubin (p < 0.001), prothrombin ratio (p = 0.001), and INR (p = 0.002).

Conclusion: Most cirrhotic patients had low to moderate QoL. QoL assessment should be integrated into routine management, with special attention to nutritional, psychological, and social support, particularly for high-risk groups.

Keywords: Liver cirrhosis, quality of life, SF-36.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

   Xơ gan là hậu quả cuối cùng của quá trình xơ hóa tiến triển sau các tổn thương gan mạn tính, gây ra nhiều biến chứng nặng nề và đe dọa tính mạng người bệnh [1], [2]. Năm 2017, xơ gan là nguyên nhân của hơn 1,32 triệu ca tử vong, chiếm 2,4% tổng số tử vong toàn cầu [2]. Bên cạnh gánh nặng về thể chất, xơ gan còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tâm trạng, các mối quan hệ xã hội, năng suất lao động và hành vi của người bệnh, từ đó làm suy giảm đáng kể chất lượng cuộc sống (CLCS) [3].

Các nghiên cứu quốc tế cho thấy bệnh nhân xơ gan có điểm CLCS (SF-36) thấp hơn rõ rệt so với dân số khỏe mạnh. Tại Ấn Độ, bệnh nhân xơ gan có điểm số CLCS thấp hơn đáng kể ở tất cả các lĩnh vực, trong khi tại Brazil có tới 39,1% bệnh nhân có CLCS thấp [4]. Những kết quả này khẳng định tầm quan trọng của việc song song với điều trị thể chất, cần chú trọng đến chăm sóc sức khỏe tinh thần và xã hội cho người bệnh.

Tại Việt Nam, phần lớn các nghiên cứu về xơ gan tập trung vào dịch tễ học, chẩn đoán và điều trị, trong khi các nghiên cứu đánh giá CLCS của bệnh nhân còn hạn chế. Đặc biệt, tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới – Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Xuất phát từ thực tiễn trên, nghiên cứu này được tiến hành với mục tiêu: (1) Mô tả chất lượng cuộc sống của bệnh nhân xơ gan điều trị tại Trung tâm Bệnh Nhiệt đới – Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An; và (2) Phân tích một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống ở nhóm đối tượng này.

 

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu: Bệnh nhân xơ gan đang điều trị nội trú tại Trung tâm Bệnh Nhiệt Đới - Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An từ tháng 12/2024 đến tháng 07/2025.

2.1.1. Tiêu chuẩn lựa chọn: ≥ 18 tuổi, đồng ý tham gia nghiên cứu, tỉnh táo và tiếp xúc tốt.

2.1.2. Tiêu chuẩn loại trừ: xơ gan tim hoặc xơ gan có các bệnh kèm theo (đái tháo đường, viêm khớp dạng thấp, tai biến mạch máu não) có thể làm ảnh hưởng CLCS không do xơ gan.

2.2. Phương pháp nghiên cứu:

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu theo phương pháp mô tả, thiết kế cắt ngang.

2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện, chọn các bệnh nhân xơ gan thỏa mãn tiêu chuẩn lựa chọn trong thời gian nghiên cứu. Trên thực tế, có 111 bệnh nhân xơ gan thỏa mãn điều kiện tham gia vào nghiên cứu.

2.2.3. Công thụ và phương pháp thu thập thông tin:

Công cụ: hồ sơ bệnh án, bộ câu hỏi thiết kế sẵn kết hợp với bộ công cụ SF - 36.

Phương pháp thu thập: thu thập thông tin dựa vào hồ sơ bệnh án và phát vấn trực tiếp.

2.3. Biến số nghiên cứu:

Nhóm biến thông tin chung: tuổi, giới, nơi sinh sống, dân tộc, nghề nghiệp, học vấn.

Nhóm biến đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng: giai đoạn bệnh và thời gian mắc bệnh; Albumin huyết tương, Bilirubin toàn phần, INR, tỷ lệ Prothrombin.

Nhóm biến CLCS: điểm trung bình sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và CLCS.

2.4. Xử lý số liệu: Nhập số liệu bằng phần mềm Epi Data 3.1. Phân tích và xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS 20.0.

2.5. Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được thông qua hội đồng khoa học Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An. Các thông tin về ĐTNC đều được mã hoá và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu.

III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Thông tin  đối tượng nghiên cứu

Bảng 3. 1. Thông tin đối tượng nghiên cứu

Thông tin chung

Tần số (N)

Tỷ lệ (%)

Tuổi

  • ± SD: 54,9 ± 11,8

Min-Max: 30-83

< 40 tuổi

13

11,7

40 - 59 tuổi

61

55,0

> 59 tuổi

37

33,3

Giới tính

Nam

95

85,6

Nữ

16

14,4

Khu vực sống

Nông thôn

85

76,6

Thành thị

26

23,4

Dân tộc

Kinh

94

84,7

Thiểu số

17

15,3

 

Nghề nghiệp

Nông dân

68

61,3

Công nhân

17

15,3

Kinh doanh/buôn bán

10

9,0

Công chức/viên chức

2

1,8

Khác

14

12,6

Trình độ học vấn

Dưới THPT

70

63,1

Từ THPT trở lên

41

36,9

            Nhận xét: Tuổi trung bình của bệnh nhân xơ gan trong nghiên cứu là 54,95 ± 11,84 tuổi, thấp nhất là 30, cao nhất là 83 tuổi, chủ yếu là từ 40 - 59 tuổi (55%). Nam giới chiếm tỷ lệ cao với 85,6%. Phần lớn đối tượng nghiên cứu sống ở khu vực nông thôn (76,6%) và trình độ học vấn dưới THPT (63,1%). Dân tộc kinh chiếm đa số với tỷ lệ 84,7%. Nghề nghiệp phổ biến nhất là nông dân với 61,3%.

           

3.2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân xơ gan

Bảng 3. 2. Điểm đánh giá sức khỏe thể chất và tinh thần của người bệnh

 

Sức khỏe thể chất

X ± SD

Sức khỏe tinh thần

X ± SD

Hoạt động thể chất

47,34 ± 32,08

Sức sống

44,86 ± 18,82

Hạn chế về thể chất

0,0 (0,0 - 50,0)*

Hoạt động xã hội

42,68 ± 21,28

Cảm giác đau

45,25 ± 22,07

Hạn chế về cảm xúc

0,0 (0,0 - 33,3)*

Tình trạng sức khỏe

15,28 ± 15,31

Sức khỏe tâm lý

50,96 ± 18,10

SKTC chung

31,70 ± 21,83

SKTT chung

39,05 ± 18,97

Điểm trung bình CLCS:  35,38 ± 19,94; thấp nhất là 4, cao nhất là 82,85 điểm

            Nhận xét: * Các biến không phân phối chuẩn được trình bày dưới dạng trung vị (IQR), đa số bệnh nhân xơ gan trong nghiên cứu đều có hạn chế về thể chất và cảm xúc. Điểm trung bình SKTC và SKTT của bệnh nhân xơ gan lần lượt là 31,70 ± 21,83 điểm và 39,05 ± 18,97 điểm; điểm trung bình CLCS là 35,38 ± 19,94; thấp nhất là 4, cao nhất là 82,85 điểm.

 

 

Biều đồ 3. 1. Phân loại chất lượng cuộc sống của bệnh nhân xơ gan

            Nhận xét: Bệnh nhân có CLCS trung bình chiếm tỷ lệ cao nhất với 56,8%, tiếp theo là CLCS thấp (41,4%) và CLCS tốt chỉ chiếm 1,8%.   

3.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân xơ gan

Bảng 3. 3. Tương quan giữa sức khỏe thể chất, sức khỏe tinh thần và tuổi với CLCS của bệnh nhân xơ gan

Điểm

SKTC

SKTT

Tuổi

r*

p

r*

p

r*

p

CLCS

0,981

< 0,001

0,974

< 0,001

- 0,204

0,031

* r của spearman

            Nhận xét: Có mối tương quan thuận chiều, rất chặt chẽ giữa điểm giữa điểm sức khỏe thể chất và điểm sức khỏe tinh thần với CLCS ở bệnh nhân xơ gan. Khi tuổi tăng lên thì điểm chất lượng cuộc sống của bệnh nhân xơ gan có xu hướng giảm.

Bảng 3. 4. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân xơ gan

Đặc điểm

CLCS thấp

N (%)

CLCS TB, tốt

N (%)

OR (95%CI)

p

Học vấn

Dưới THPT

34 (48,6)

36 (51,4)

2,28 (1,00- 5,18)

0,046

THPT trở lên

12 (29,3)

29 (70,7)

Thời gian mắc bệnh

> 1 năm

42 (47,7)

46 (52,3)

4,34(1,36-13,79)

0,009

≤ 1 năm

4 (17,4)

19 (82,6)

Giai đoạn

Xơ gan mất bù

41 (87,2)

6 (12,8)

80,63 (23,06-281,98)

< 0,001

Xơ gan còn bù

5 (7,8)

59 (92,2)

Albumin huyết tương

< 35 g/L

44 (49,4)

45 (50,6)

9,78(2,16-44,34)

0,001

35 g/L

2 (9,1)

20 (90,9)

Bilirunin toàn phần

17 µmol/L

42 (51,9)

39 (48,1)

7,0

(2,24-21,87)

< 0,0

< 17 µmol/L

4 (13,3)

26 (86,7)

Tỷ lệ Prothrombin

< 70%

30 (58,8)

21 (41,2)

3,93 (1,78-8,73)

0,001

70%

16 (26,7)

44 (73,3)

INR

> 1,2

30 (56,6)

23 (43,4)

3,42(1,55-7,56)

0,002

1,2

16 (27,6)

42 (72,4)

            Nhận xét: Ở bệnh nhân xơ gan, có mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa: trình độ học vấn, thời gian mắc bệnh và giai đoạn bệnh (p<0,05) với CLCS. Các đặc điểm cận lâm sàng có mối liên quan với CLCS của bệnh nhân xơ gan bao gồm: Albumin huyết tương (p=0,001), Bilirunin toàn phần (p<0,001), tỷ lệ Prothrombin (p=0,001) và INR (p=0,002).

IV. BÀN LUẬN

4.1. Thông tin chung của đối tượng nghiên cứu

            Trong nghiên cứu này, phần lớn bệnh nhân xơ gan ở độ tuổi 40–59, tuổi trung bình 54,95 ± 11,84—tương đồng Elaine Chiu (54,2 ± 10,4) (5). Kết quả phù hợp y văn: xơ gan là hệ quả xơ hóa tiến triển sau tổn thương gan mạn, thường biểu hiện rõ sau 10–20 năm (1). Ở Việt Nam, lạm dụng rượu bia là yếu tố nguy cơ nổi bật dẫn đến viêm gan mạn và xơ gan ở tuổi trung niên; cùng với đó, nam giới chiếm 85,6%, cao hơn nữ và phù hợp với các báo cáo trước (86,11%; 85,3%) (6), (7), có thể do tỷ lệ dùng rượu bia và nguy cơ nhiễm virus viêm gan cao hơn ở nam (8). Đa số đối tượng là người Kinh (84,7%) và sống tại nông thôn (76,6%), phản ánh đặc điểm dân số–địa lý và các nguy cơ đặc thù (bao phủ tiêm viêm gan B chưa đầy đủ, điều kiện vệ sinh hạn chế, thói quen dùng rượu tự nấu). Về nghề nghiệp, nông dân chiếm 61,3%, cao hơn báo cáo của Bùi Đức Thuấn (36,42%) nhưng cùng cho thấy nhóm nông dân chiếm ưu thế, phản ánh cấu trúc kinh tế–xã hội nơi nông nghiệp vẫn chủ đạo và lao động nông thôn chiếm tỷ trọng lớn (9).

 

4.2. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân xơ gan

.

Điểm trung bình SKTC và SKTT lần lượt là 31,70 ± 21,83 và 39,05 ± 18,97, thấp hơn dân số khỏe mạnh và phù hợp với nhận định rằng bệnh nhân xơ gan có điểm SF-36 suy giảm ở cả 8 lĩnh vực (10). So với nghiên cứu của Nguyễn Duy Tân trên nhóm Child-Pugh B/C (23,8 ± 12,9 và 29,3 ± 10,8), các điểm số của chúng tôi cao hơn, khả dĩ do mẫu nghiên cứu bao gồm cả bệnh nhân còn bù, trong khi nghiên cứu đối chiếu tập trung nhóm mất bù nặng hơn (11). Kết quả củng cố gánh nặng bệnh tật đáng kể, đặc biệt ở chức năng vận động–thể chất và cảm xúc, qua đó nhấn mạnh nhu cầu phục hồi chức năng và hỗ trợ tâm lý cho người bệnh.

So với nghiên cứu tại Bệnh viện ĐH Y Hà Nội, CLCS trung bình 46,17 ± 16,47 (cao hơn nghiên cứu của chúng tôi), khác biệt có thể do đối tượng ngoại trú ổn định hơn so với mẫu nội trú trong nghiên cứu này (9). Biểu đồ 3.1 cho thấy 56,8% bệnh nhân có CLCS trung bình, 41,4% thấp, chỉ 1,8% tốt—khác với kết quả tại Bạch Mai (12), khả dĩ phản ánh chênh lệch kinh tế–xã hội và tiếp cận dịch vụ y tế (Hà Nội so với Nghệ An).

 

4.3. Một số yếu tố liên quan đến chất lượng cuộc sống của bệnh nhân xơ gan

             

Điểm trung bình SKTC và SKTT lần lượt là 31,70 ± 21,83 và 39,05 ± 18,97, thấp hơn dân số khỏe mạnh và phù hợp với nhận định rằng bệnh nhân xơ gan có điểm SF-36 suy giảm ở cả 8 lĩnh vực (10). So với nghiên cứu của Nguyễn Duy Tân trên nhóm Child-Pugh B/C (23,8 ± 12,9 và 29,3 ± 10,8), các điểm số của chúng tôi cao hơn, khả dĩ do mẫu nghiên cứu bao gồm cả bệnh nhân còn bù, trong khi nghiên cứu đối chiếu tập trung nhóm mất bù nặng hơn (11). Kết quả củng cố gánh nặng bệnh tật đáng kể, đặc biệt ở chức năng vận động–thể chất và cảm xúc, qua đó nhấn mạnh nhu cầu phục hồi chức năng và hỗ trợ tâm lý cho người bệnh.

So với nghiên cứu tại Bệnh viện ĐH Y Hà Nội, CLCS trung bình 46,17 ± 16,47 (cao hơn nghiên cứu của chúng tôi), khác biệt có thể do đối tượng ngoại trú ổn định hơn so với mẫu nội trú trong nghiên cứu này (9). Biểu đồ 3.1 cho thấy 56,8% bệnh nhân có CLCS trung bình, 41,4% thấp, chỉ 1,8% tốt—khác với kết quả tại Bạch Mai (12), khả dĩ phản ánh chênh lệch kinh tế–xã hội và tiếp cận dịch vụ y tế (Hà Nội so với Nghệ An).

 

           

V. KẾT LUẬN

Nghiên cứu ghi nhận tương quan thuận rất chặt chẽ giữa SKTC, SKTT và CLCS ở bệnh nhân xơ gan, phù hợp cơ chế bệnh sinh: biến chứng thể chất (cổ trướng, xuất huyết tiêu hóa, phù…) làm suy giảm tâm lý, trong khi rối loạn tâm thần (lo âu, stress) cản trở hồi phục và hiệu quả điều trị; Nishikawa (2020) cũng nhấn mạnh tác động đồng thời thể chất–tinh thần lên tình trạng suy nhược và nhu cầu theo dõi toàn diện, kể cả hòa nhập xã hội (13).

CLCS giảm theo tuổi với tương quan nghịch mức độ yếu (r = −0,204; p = 0,031), phù hợp các kết quả của Sobhonslidsuk và Younossi cho thấy tuổi cao liên quan suy giảm nhiều mặt của CLCS (14), (15), có thể do bệnh kéo dài, đa bệnh lý, hạn chế tiếp cận dịch vụ và yếu tố kinh tế–xã hội (16). Trình độ học vấn dưới THPT làm tăng nguy cơ CLCS thấp 2,28 lần, nhất quán với bằng chứng rằng hiểu biết tốt cải thiện tuân thủ và CLCS (14). Thời gian mắc bệnh > 1 năm làm tăng nguy cơ CLCS thấp 4,3 lần, phù hợp các báo cáo về suy giảm dần SKTC, SKTT và CLCS theo thời gian do tích lũy triệu chứng và gánh nặng chi phí–lo âu (9), (12), (17). Đặc biệt, giai đoạn mất bù làm tăng nguy cơ CLCS thấp 80,6 lần, đồng hướng với y văn về tác động nặng nề của cổ trướng, bệnh não gan, xuất huyết lên chức năng xã hội và sức khỏe tâm lý (14), (15).

CLCS còn liên quan chặt với chỉ số cận lâm sàng: albumin thấp phản ánh suy giảm tổng hợp gan; bilirubin tăng và rối loạn đông máu (giảm prothrombin, tăng INR) cho thấy tổn thương nặng, đồng thời dự báo CLCS kém—quan sát đã được Asma Labidi (2019) ghi nhận đối với bilirubin và thời gian prothrombin (10), (18). Các bất thường sinh hóa này không chỉ mang ý nghĩa tiên lượng mà còn trực tiếp làm giảm CLCS qua vàng da, ngứa, nguy cơ xuất huyết và lo âu liên quan.

           

Khuyến nghị

  • Lồng ghép đánh giá CLCS (SF-36) trong quản lý bệnh nhân xơ gan.
  • Ưu tiên can thiệp cho nhóm nguy cơ cao: tuổi cao, học vấn thấp, mắc bệnh >1 năm, giai đoạn mất bù.
  • Tăng cường giáo dục sức khỏe, hỗ trợ tâm lý – xã hội và dinh dưỡng.
  • Theo dõi sát các chỉ số sinh hóa (albumin, bilirubin, prothrombin, INR) để can thiệp sớm.

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Abhasnee Sobhonslidsuk et al, Factors influencing health-related quality of life in chronic liver disease. World J Gastroenterol, 2006. 12(48): p. 7786-91.
  2. Asma Labidi et al, Health-related quality of life in cirrhotic patients: a case-control study. Tunis Med, 2019. 97(8-9): p. 990-996.
  3. Elaine Chiu et al, Malnutrition Impacts Health-Related Quality of Life in Cirrhosis: A Cross-Sectional Study. Nutr Clin Pract, 2020. 35(1): p. 119-125.
  4. Hiroki Nishikawa et al, Health-Related Quality of Life and Frailty in Chronic Liver Diseases. 2020. 10(5): p. 76.
  5. K Janani et al, Health-related quality of life in liver cirrhosis patients using SF-36 and CLDQ questionnaires. Clin Exp Hepatol, 2018. 4(4): p. 232-239.
  6. Neila Paula de Souza et al, Assessment of health-related quality of life and related factors in patients with chronic liver disease. Braz J Infect Dis, 2015. 19(6): p. 590-5.
  7. Rubisha Adhikari et al, The Quality of Life and Associated Factors Among Older Adults in Central Nepal: A Cross-Sectional Study Using the WHOQOL-OLD Tool. 2025. 22(5): p. 693.
  8. Sheng-Han Wang et al, Gender disparity in chronic hepatitis B: mechanisms of sex hormones. 2015. 30(8): p. 1237-1245.
  9. Z M Younossi et al, Health-related quality of life in chronic liver disease: the impact of type and severity of disease. Am J Gastroenterol, 2001. 96(7): p. 2199-205.
  10. Bùi Đức Thuấn, Đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân xơ gan đến khám và điều trị tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. 2019: Trường Đại học Y Hà Nội.
  11. Đỗ Thị Cúc và cs, Đánh giá tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan ở bệnh nhân xơ gan tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. 2020.
  12. Hà Văn Mạo, Xơ  gan. Tạp  chí  thông  tin  Y  dược, 2010. 12: p. 6-8.
  13. Nguyễn Duy Tân và cs, Chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân xơ gan nhập viện tại Bệnh viện Đa khoa Trung Ương Cần Thơ. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, 2025(83): p. 142-148.
  14. Nguyễn Phương Nhung và cs, Chất lượng cuộc sống và một số yếu tố liên quan trên bệnh nhân xơ gan điều trị nội trú tại trung tâm bệnh viện nhiệt đới-Bệnh viện Bạch Mai. 2019, TLU.
  15. Nguyễn Thanh Liêm và cs, Nguyên nhân, đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và kết quả điều trị ở bệnh nhân xơ gan. Tạp chí Y học Việt Nam, 2025. 550(1).
  16. Nguyễn Thị Thơm và cs, Đánh giá chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân xơ gan tại trung tâm tiêu hóa gan mật Bệnh viện Bạch Mai năm 2022. Tạp chí Y Dược Thái Bình, 2023. 1(6).
  17. Phạm Cẩm Phương và cs, Mô tả một số đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng ở bệnh nhân xơ gan. Tạp chí Y học Việt Nam, 2022. 508(1).
  18. Trường Đại học Y Hà Nội, Bệnh học nội khoa tập 2. 2020: Nhà xuất bản y học.

Tin mới