Thực trạng rối loạn trầm cảm của phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất năm 2020

Bài nghiên cứu: Thực trạng rối loạn trầm cảm của phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất năm 2020

TÓM TẮT

     Mục tiêu: (i) Mô tả thực trạng tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và bệnh viện đa khoa Thống Nhất; (ii) Nhận xét một số yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu.

Đối tượng và thời gian nghiên cứu: 288 phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và bệnh viên Đa khoa Thống Nhất từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2020.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang với phương pháp chọn mẫu thuận tiện.

    Kết quả: Tỷ lệ rối loạn trầm cảm nhẹ (cần theo dõi) chiếm18.4%, tỷ lệ rối loạn trầm cảm cần điều trị chiếm 15.6%. Một số yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm của phụ nữ mang thai như: nghề nghiệp, thu nhập, tuổi thai hiện tại, giới tính thai nhi, số lần mang thai. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê (p< 0.005).

   Kết luận: Trầm cảm là bệnh lý tâm thần ngày càng phổ biến trong thai kỳ, ảnh hưởng đến 34% phụ nữ mang thai. Cần quan tâm hỗ trợ tâm lý đến nhóm PNMT có nguy cơ cao như: nghề nghiệp là cán bộ, viên chức, buôn bán; thu nhập không đủ sống; PNMT có tuổi thai ở 3 tháng giữa thai kỳ; PNMT có gia đình và bản thân đang quan tâm đến giới tính thai nhi; PNMT không đúng theo kế hoạch

   Từ khoá: Trầm cảm thời kỳ mang thai, phụ nữ mang thai, thai nhi

 

ABSTRACT

Objectives: (i) To describe the current rate of depressive disorders in pregnant women visiting Dong Nai General Hospital and Thong Nhat General Hospital; (ii) Comment on some factors related to depressive disorders in the study subjects.

Subjects and time of study: 288 pregnant women visiting Dong Nai General Hospital and Thong Nhat General Hospital from May to July 2020.

Method: Cross-sectional descriptive study with convenient sampling method.

Results: The rate of mild depressive disorders (need to be monitored) is 18.4%, the rate of depressive disorders requiring treatment is 15.6%. Some factors related to depressive disorders in pregnant women are: occupation, income, current gestational age, fetal sex, number of pregnancies. This difference is statistically significant (p < 0.005).

Conclusion: Depression is an increasingly common mental illness during pregnancy, affecting 34% of pregnant women. It is necessary to pay attention to psychological support for high-risk pregnant women such as: occupations as officials, civil servants, traders; income is not enough to live; pregnant women with a gestational age in the middle 3 months of pregnancy; pregnant women with a family and are concerned about the gender of the fetus; pregnant women not following the plan

Keywords: Depression during pregnancy, pregnant women, fetus

 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Khi mang thai, cơ thể phụ nữ sẽ có nhiều thay đổi cả về ngoại hình và sinh lý phức tạp, bao gồm những thay đổi về tâm lý, xã hội, cảm xúc, đặc biệt là ở lần mang thai đầu tiên. Cảm xúc đó diễn biến theo nhiều cung bậc khác nhau, có thể là sự mơ hồ, thay đổi tâm trạng thường xuyên, từ lo lắng, mệt mỏi, kiệt sức, buồn ngủ, phản ứng trầm cảm đến phấn khích. Trầm cảm là bệnh lý tâm thần phổ biến nhất trong thai kỳ, (10). Nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chỉ ra rằng mức độ ảnh hưởng của trầm cảm có thể ảnh hưởng đến  9.18% đến 29% phụ nữ mang thai (3), (13).  Tại Việt Nam thì tỷ lệ trầm cảm cũng diễn ra với tỷ lệ từ 4,9% đến 24,5% phụ nữ mang thai bị ảnh hưởng bởi trầm cảm (1), (2). Bên cạnh đó, một vài nghiên cứu cũng cho thấy kiến thức và thái độ có liên quan chặt chẽ đến sức khỏe tâm thần (16). Ở Đồng Nai có rất ít những nghiên cứu về trầm cảm của phụ nữ trong giai đoạn mang thai được công bố rộng rãi. Vì những lý do trên chúng tôi chọn đề tài “Thực trạng rối loạn trầm cảm của phụ nữ mang thai đến khám tại Bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và bệnh viện đa khoa Thống Nhất năm 2020” với mục tiêu: (i) Mô tả thực trạng tỷ lệ rối loạn trầm cảm ở phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Đa khoa Đồng Nai và bệnh viện đa khoa Thống Nhất; (ii) Nhận xét một số yếu tố liên quan đến rối loạn trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu: Phụ nữ đang mang thai đến khám thai tại khu A – khoa Sản - Bệnh viện đa khoa Đồng Nai và Khoa sản - Bệnh viện Đa khoa Thống Nhất từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2020.

2.2. Thời gian: Thời gian: từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2020.

2.3. Thiết kế: Phương pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang.

2.4. Cỡ mẫu: n =  Z 2 1 - α/2 P (1 – P) / d2 = (1.96)2 x 0.25(1-0.25)/(0.05)2 =  288

Khoảng tin cậy 95%, n cỡ mẫu, Z Hệ số tin cậy, α Mức ý nghĩa thống kê, p (0.1 < p < 0.3)  Tỷ lệ ước đoán = 0.25  (15), d Khoảng sai lệch = 0.05

2.5. Phương pháp chọn mẫu:  Chọn mẫu thuận tiện.

2.6. Các khái niệm, thước đo, tiêu chuẩn đánh giá:

      Nhóm nghiên cứu thu thập thông tin nghiên cứu từ các đối tượng tham gia bằng cách sử dụng bảng câu hỏi gồm 4 phần:

Phần A: Bao gồm 15 câu hỏi về thông tin chung của phụ nữ mang thai.

Phần B: Sử dụng bộ câu hỏi trắc nghiệm đánh giá tình trạng trầm cảm sau sinh của Edinburgh gồm 10 câu, được tính điểm như sau:

+ Câu hỏi 1, 2, & 4 (được đánh dấu *): Được ghi 0, 1, 2 hoặc 3 với câu trả lời là ý kiến trên cùng được ghi là 0 với câu trả lời là ý kiến dưới cùng được ghi là 3.

+ Câu hỏi 3, 5,6,7,8,9,10 (không có *): Được ghi ngược lại, với câu trả lời là ý kiến trên cùng được ghi là 3 và với câu trả lời là ý kiến dưới cùng được ghi là 0.

(Điểm số: 0-9: Có  một số triệu chứng rối loạn cảm xúc nhẹ và ít cần can thiệp; 10-12: Có các triệu chứng đau khổ có thể là khó chịu lặp lại sau 2 tuần và tiếp tục theo dõi tiến độ thường xuyên; ≥ 13: Điểm số trên 13 yêu cầu cho thấy cần phải đánh giá thêm và theo dõi khả năng của trầm cảm cao; Mục 10: Bất kỳ phụ nữ nào đạt điểm 1, 2 hoặc 3 ở mục 10 yêu cầu đánh giá thêm trước khi rời khỏi phòng đánh giá để đảm bảo an toàn cho chính cô ấy và thai nhi)

Lưu ý: Thang điểm Edinburgh này chỉ có giá trị trong vòng 7 ngày.

Phần C: bao gồm  06 câu hỏi liên quan đến kiến thức về rối loạn trầm cảm. Tối thiểu là 0 điểm, tối đa 06 điểm, được chia thành các mức theo Bloom’s cut off point (60%-80%) (< 3.6 điểm: kiến thức thấp, 3.6 – 4.8 điểm: kiến thức trung bình, > 4.8 điểm: kiến thức tốt về rối loạn trầm cảm khi mang thai)

Phần D: Bao gồm 05 câu hỏi liên quan đến thái độ về rối loạn trầm cảm của phụ nữ mang thai. Câu hỏi ở phần này sẽ bao gòm câu hỏi tiêu cực và câu hỏi tích cực được sử dụng theo thang đo Likert:

CÂU TÍCH CỰC

 

CÂU TIÊU CỰC

Lựa chọn

Điểm

 

Lựa chọn

Điểm

Rất đồng ý

5

 

Rất đồng ý

1

Đồng ý

4

 

Đồng ý

2

Không rõ

3

 

Không rõ

3

Không đồng ý

2

 

Không đồng ý

4

Rất không đồng ý

1

 

 

Rất không đồng ý

5

Giá trị khoảng cách từ câu D1 câu D5:           Maximum-Minimumn  = 25-55  = 4.0

2.7. Phương pháp phân tích  số liệu: Các số liệu sau khi thu thập sẽ được mã hóa bằng kí hiệu sau đó đưa vào phần mềm SPSS 21.0 để phân tích.

2.8. Vấn đề đạo đức của nghiên cứu: Nghiên cứu này được thực hiện với mục đích bảo vệ quyền con người của tất cả các đối tượng.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

3.1. Thông tin về đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.1: Đặc điểm chung đối tượng nghiên cứu

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Tuổi

Dưới 18 tuổi

3

1.0

Từ 18 – 35 tuổi

254

88.2

Trên 35 tuổi

31

10.8

Hộ khẩu thường trú

Biên Hòa

177

61.5

Huyện/Tỉnh

111

38.5

Tôn giáo

Phật

89

30.9

Thiên Chúa

94

32.6

Khác

9

3.1

Không Tôn giáo

96

33.3

Nghề nghiệp hiện nay

Cán bộ, viên chức

32

11.1

Công nhân

146

50.7

Khác

26

9.0

Nội trợ

67

23.3

Buôn bán

17

5.9

Tình trạng hôn nhân

Đã kết hôn

275

95.5

Chưa kết hôn

11

3.8

Mẹ đơn thân

2

0.7

Thu nhập

Đủ sống

278

96.5

Không đủ sống

10

3.5

Nhận xét:

    Trong mẫu nghiên cứu, 88,2% PNMT ở độ tuổi sinh sản 18–35, nhóm tuổi tối ưu cho thai kỳ và sinh nở, giúp giảm nguy cơ cho mẹ và thai. Hộ khẩu thường trú chủ yếu tại Biên Hòa (61,5%)—trung tâm đô thị của Đồng Nai. Về đặc điểm xã hội: tôn giáo phân bố chủ yếu Thiên Chúa giáo 32,6% và Phật giáo 30,9%; nghề nghiệp công nhân chiếm 50,7%, phù hợp cơ cấu lao động địa phương; đã kết hôn 95,5%; và 96,5% có thu nhập mức “đủ sống.”

Bảng 3.2: Đặc điểm sức khỏe đối tượng nghiên cứu

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

 

Các bệnh đang mắc hiện tại (chọn nhiều đáp án)

Tim mạch

1

0.3%

 

Cao huyết áp

4

1.4%

 

Đái tháo đường

12

4.1%

 

Bệnh liên quan thần kinh

1

0.3%

 

Bệnh về tâm thần

1

0.3%

 

Bệnh khác

22

7.6%

 

Không có

249

85.9%

 

Thuốc và chất kích thích có dùng trong khoảng thời gian trước khi mang thai hoặc hiện tại.

Rượu

6

2.1

 

Ma túy

1

0.3

 

Thuốc kháng viêm

2

0.7

 

Khác/Không

279

96.9

 

Các bệnh mắc phải của những người thuộc gia đình ruột

Bệnh về tâm thần

1

0.3

 

Không có

287

99.7

 

Trong thời gian mang thai lần này có nằm viện để điều trị bệnh

Động thai

35

12.2

 

Khác

15

5.2

 

Không

238

82.6

 

Số lần mang thai

Mang thai lần 1

113

39.2

Mang thai lần 2

115

39.9

Mang thai lần 3

50

17.4

Mang thai lần 4

10

3.5

Tuổi thai

3 tháng đầu

24

8.3

3 tháng giữa

36

12.5

3 tháng cuối

228

79.2

Quan tâm giới tính thai nhi

60

20.8

Không

228

79.2

Tình trạng sức khỏe thai nhi hiện tại

Khỏe mạnh

227

78.8

Bệnh lý

14

4.9

Đang theo dõi

38

13.2

Khác

9

3.1

Lần mang thai này

Thai quý hiếm

31

10.8

Đúng kế hoạch

184

63.9

Không đúng kế hoạch

42

14.6

khác

31

10.8

Nhận xét:

   Kết quả ở Bảng 3.2 cho thấy đa số PNMT không có bệnh lý nội khoa (85,9%), không sử dụng chất kích thích/ma túy/rượu hoặc thuốc kháng viêm trước hay trong thai kỳ (96,9%), không có tiền sử bệnh tâm thần ở gia đình ruột (99,7%) và không phải nhập viện điều trị (82,6%). Về đặc điểm sản khoa, mang thai lần 1–2 chiếm 79,1%, thai kỳ ở Quý III 79,2%. Ở khía cạnh tâm lý–xã hội, không quan tâm tới giới tính thai nhi chiếm 79,2%, thai nhi hiện khỏe mạnh 78,8%, và mang thai theo kế hoạch 63,9%.

 

Bảng 3.2: Phân loại kiến thức, thái độ của đối tượng nghiên cứu

Nội dung

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Kiến thức về rối loạn trầm cảm

Kiến thức thấp

76

26.4

Kiến thức trung bình

31

10.8

Kiến thức tốt

181

62.8

Thái độ về rối loạn trầm cảm

Rất không phù hợp

0.0

0.0

Không phù hợp

9

3.1

Bình thường

160

55.6

Phù hợp

118

41.0

Rất phù hợp

1

0.3

Nhận xét:

   Nhóm PNMT có KT tốt chiếm tỷ lệ cao nhất 62.8%; nhóm PNMT có thái độ ở mức bình thường chiếm tỷ lệ cao nhất 55.6%; Điều này cho thấy PN đã có nhận thức tốt về sự hiện diện của rối loạn trầm cảm trong giai đoạn mang thai. Tuy nhiên cũng cần tăng cường các chương trình tư vấn, giáo dục sức khỏe cho PNMT giúp nâng cao thái độ về trầm cảm.

3.2. Thực trạng rối loạn trầm cảm của đối tượng nghiên cứu

Bảng 3.3: Phân loại trầm cảm của phụ nữ mang thai

Ý nghĩ tự làm tổn thương của thai phụ

Không bao giờ

176

61.1

Hiếm khi

69

24.0

Thỉnh thoảng

36

12.5

Có, khá thường xuyên

7

2.4

Phân loại trầm cảm theo thang đo trầm cảm của Endinburg

Không có RLTC

190

66.0

RLTC nhẹ cần theo dõi

53

18.4

RLTC cần điều trị

45

15.6

Nhận xét:

   Trong mẫu 288 phụ nữ mang thai, tỷ lệ có dấu hiệu rối loạn trầm cảm là 34,0%, gồm trầm cảm nhẹ (cần theo dõi) 18,4% và trầm cảm (cần điều trị) 15,6%. Mức này cao hơn một số nghiên cứu tại Việt Nam (4,9–24,5%) (1), (2) và cũng vượt một số báo cáo quốc tế như Iran 25,3% (n=142) (15) và Hy Lạp 24,3% (n=25) (5), gợi ý gánh nặng trầm cảm tiền sản đáng lưu ý trong bối cảnh nghiên cứu này.

   Tỷ lệ phụ nữ mang thai có ý nghĩ tự gây tổn thương (thỉnh thoảng đến khá thường xuyên) là 14,9%, thấp hơn nghiên cứu tại Bệnh viện Hùng Vương năm 2004 (19%, n=506) (7). Kết quả khẳng định trầm cảm tiền sản gắn với nguy cơ bất lợi nghiêm trọng cho sức khỏe mẹ và thai; do đó, cần lồng ghép sàng lọc và thăm khám tâm lý định kỳ trong mỗi lần khám thai để phát hiện sớm và can thiệp kịp thời.

3.3. Một số yếu tố liên quan đến trầm cảm của đối tượng nghiên cứu.

 

Bảng 3.4 : Liên quan giữa nghề nghiệp hiện nay với rối loạn trầm cảm:

 

 

MỨC ĐỘ

Tổng= 288

p

Không RLTC

RLTC nhẹ

RLTC

cần điều trị

NGHỀ NGHIỆP HIỆN NAY

Cán bộ,

viên chức

16 (50%)

13 (40.6%)

3 (9.4%)

32 (100%)

0.04

Công nhân

91 (62.3%)

28 (19.2%)

27 (18.5%)

146(100%)

Khác

23 (88.5%)

1 (3.8%)

2 (7.7%)

26 (100%)

Nội trợ

51 (76.1%)

7(10.4%)

9 (13.4%)

67 (100%)

Buôn bán

9 (52.9%)

4 (23.5%)

4 (23.5%)

17 (100%)

Nhận xét:

   Phân tích theo nghề nghiệp cho thấy cán bộ/viên chức có tỷ lệ rối loạn trầm cảm nhẹ (RLTC) cao nhất (40,6%), trong khi nhóm buôn bán có tỷ lệ RLTC cần điều trị cao nhất (23,5%); khác biệt giữa các nhóm có ý nghĩa thống kê (p=0,004). Kết quả gợi ý áp lực và yêu cầu công việc ở các nghề lao động trí óc/kinh doanh có thể làm tăng nguy cơ triệu chứng trầm cảm trong thai kỳ, phù hợp với bằng chứng về tác động bất lợi của căng thẳng nghề nghiệp ở PNMT (9). Do đó, cần xem xét phân công công việc hợp lý và hỗ trợ tâm lý–xã hội cho phụ nữ mang thai.

Bảng 3.5: Mối liên quan giữa thu nhập với rối loạn trầm cảm:

 

MỨC ĐỘ

Tổng= 288 

p

Không RLTC

RLTC nhẹ

RLTC

cần điều trị

THU NHẬP

 

Đủ sống

186 (66.9%)

52 (18.7%)

40 (14.4%)

278 (100%)

0.01

Không đủ sống

4 (40%)

1 (10%)

5 (50%)

10 (100%)

Nhận xét:

   Trong nhóm thu nhập đủ sống, tỷ lệ RLTC nhẹ là 18,7%, cao hơn các nhóm còn lại; trong khi ở nhóm thu nhập không đủ sống, tỷ lệ RLTC cần điều trị đạt 50%, vượt xa nhóm đủ sống (14,4%). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,01), cho thấy bất an kinh tế là yếu tố nguy cơ quan trọng đối với sức khỏe tâm thần thai kỳ.

   Kết quả này phù hợp với bằng chứng tại Hà Nội, nơi mức độ phổ biến và các yếu tố quyết định trầm cảm ở PNMT được ghi nhận tương đối cao so với các nước thu nhập cao (n=64) (8), và nhất quán với nhận định rằng trầm cảm thai kỳ có xu hướng phổ biến hơn ở các nước đang phát triển so với các nước phát triển (15). Do đó, cần chính sách hỗ trợ kinh tế–xã hội phù hợp trong thai kỳ và giai đoạn sinh nở nhằm ổn định tâm lý và giảm nguy cơ trầm cảm cho PNMT.

Bảng 4.4: Mối liên quan giữa tuổi thai với rối loạn trầm cảm:

 

MỨC ĐỘ

Tổng= 288

p

Không

RLTC

RLTC nhẹ

RLTC

cần điều trị

TUỔI THAI

 

3 tháng đầu

18 (75%)

1 (4.2%)

5 (20.8%)

24 (100%)

0.02

3 tháng giữa

16 (44.4%)

11 (30.6%)

9 (25%)

36 (100%)

3 tháng cuối

156 (68.4%)

41 (18%)

31 (13.6%)

228 (100%)

Nhận xét:

   Trong nhóm PNMT ở Quý II, tỷ lệ RLTC nhẹ 30,6% và RLTC cần điều trị 25,0% cao nhất so với hai nhóm còn lại; khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,02). Kết quả phù hợp với các nghiên cứu ghi nhận trầm cảm mẹ liên quan mạnh hơn đến hoạt động thai nhi ở Quý II–III (6), (11).

   Sự gia tăng khó chịu thể chất và biến đổi nội tiết ở giai đoạn giữa–cuối thai kỳ (mất ngủ, rối loạn tiêu hóa, thay đổi hình thể…) có thể làm tăng nguy cơ trầm cảm ở PNMT; do đó cần ưu tiên sàng lọc và hỗ trợ tâm lý cho phụ nữ ở Quý II và III của thời kỳ thai nghén.

Bảng 4.5: Mối liên quan giữa quan tâm giới tính thai nhi với rối loạn trầm cảm:

 

MỨC ĐỘ

Tổng= 288

p

Không

RLTC

RLTC

nhẹ

RLTC

cần điều trị

QUAN TÂM GIỚI TÍNH THAI NHI

30 (50%)

12 (20%)

18 (30%)

60(100%)

0.001

Không

160 (70.2%)

41 (18%)

27 (11.8%)

228 (100%)

Nhận xét:

   Trong nhóm PNMT có bản thân và gia đình quan tâm đến giới tính thai nhi, tỷ lệ RLTC nhẹ 20% và RLTC cần điều trị 30%, cao nhất so với các nhóm khác; khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,001). Kết quả gợi ý áp lực kỳ vọng về giới tính từ gia đình/chồng và từ chính thai phụ làm suy giảm cảm xúc tích cực, tăng thất vọng, qua đó gia tăng nguy cơ rối loạn trầm cảm. Cần sàng lọc nguy cơ và hỗ trợ tâm lý có mục tiêu cho nhóm phụ nữ này trong chăm sóc tiền sản.

Bảng 4.6: Mối liên quan giữa lần mang thai này với rối loạn trầm cảm:

 

MỨC ĐỘ

Tổng= 288

p

Không RLTC

RLTC nhẹ

RLTC

cần điều trị

KẾ HOẠCH MANG THAI

Thai quý hiếm

20 (64.5%)

6 (19.4%)

5 (16.1%)

31 (100%)

0.000

Đúng kế hoạch

132 (71.7%)

31 (16.8%)

21 (11.4%)

184 (100%)

Không đúng kế hoạch

14 (33.3%)

15 (35.7%)

13 (31%)

42 (100%)

Khác

24 (77.4%)

1 (3.2%)

6 (19.4%)

31 (100%)

Nhận xét:

   Trong nhóm PNMT mang thai không theo kế hoạch, tỷ lệ RLTC nhẹ 35,7% và RLTC cần điều trị 31,0% là cao nhất so với các nhóm khác; khác biệt có ý nghĩa thống kê (p = 0,000). Kết quả phù hợp với một số nghiên cứu trước (4), (12), cho thấy thai kỳ ngoài ý muốn là yếu tố nguy cơ đáng kể đối với sức khỏe tâm thần tiền sản. Do đó, cần ưu tiên sàng lọc và hỗ trợ tâm lý cho phụ nữ mang thai không theo kế hoạch.

4. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

   Tỷ lệ trầm cảm ở PNMT là 34%. Nguy cơ trầm cảm cao hơn đáng kể ở các nhóm: nghề nghiệp cán bộ/viên chức, buôn bán; thu nhập không đủ sống; tam cá nguyệt II; bản thân và gia đình quan tâm đến giới tính thai nhi; và mang thai không theo kế hoạch.

   Không ghi nhận liên quan có ý nghĩa thống kê giữa trầm cảm với kiến thức và thái độ về trầm cảm. Ngược lại, trầm cảm liên quan có ý nghĩa thống kê với nghề nghiệp, thu nhập, tuổi thai, quan tâm giới tính thai nhi và kế hoạch mang thai lần này (p < 0,05).

Khuyến nghị:

- Cơ sở y tế: Lồng ghép truyền thông–GDSK về khám tiền hôn nhân/tiền sản và sàng lọc trầm cảm tiền sản; thực thi nghiêm quy định chống phân biệt giới tính thai nhi (tuyệt đối không thông báo giới tính thai nhi).

-  Nhân viên y tế: Thực hiện sàng lọc tâm lý định kỳ trong mỗi lần khám thai; ưu tiên can thiệp cho nhóm nguy cơ (cán bộ/viên chức, buôn bán; thu nhập không đủ sống; tuổi thai ở Quý II; quan tâm giới tính thai nhi; mang thai ngoài kế hoạch).

-  Gia đình: Tăng cường vai trò của chồng và người thân trong hỗ trợ tinh thần–tài chính, chia sẻ việc nhà, không gây áp lực về giới tính thai nhi.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. NHỊ, T. T. (2018). Thực trạng trầm cảm và hành vi tìm kiếm hỗ trợ ở phụ nữ mang thai, sau sinh tại huyện đông anh, hà nội.

2. Phạm Thị Thu Phương, Đặng Thị Minh Trang, Thái Thanh Trúc. (2020).Trầm cảm, lo âu và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Y học Thành phố Hồ Chí Minh, 24(1):64. DOI

3. Ajinkya, S., Jadhav, P. R., & Srivastava, N. N. (2013). Depression during pregnancy: Prevalence and obstetric risk factors among pregnant women attending a tertiary care hospital in Navi Mumbai. Industrial psychiatry journal, 22(1), 37-40.

4. Biaggi, A., Conroy, S., Pawlby, S., & Pariante, C. M. (2016). Identifying the women at risk of antenatal anxiety and depression: A systematic review. Journal of affective disorders, 191, 62-77.

5. Dagklis, T., Tsakiridis, I., Chouliara, F., Mamopoulos, A., Rousso, D., Athanasiadis, A., & Papazisis, G. (2018). Antenatal depression among women hospitalized due to threatened preterm labor in a high-risk pregnancy unit in Greece. The Journal of Maternal-Fetal & Neonatal Medicine, 31(7), 919-925.

6. Dieter, J. N., Emory, E. K., Johnson, K. C., & Raynor, B. D. (2008). Maternal depression and anxiety effects on the human fetus: preliminary findings and clinical implications.

7. Fisher, J. R. W., Morrow, M. M., Nhu Ngoc, N. T., & Hoang Anh, L. T. (2004). Prevalence, nature, severity and correlates of postpartum depressive symptoms in Vietnam. BJOG: An International Journal of Obstetrics & Gynaecology, 111(12), 1353-1360. https://obgyn.onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1471-0528.2004.00394.x

8. Fisher, J. R., thuthi Tran, H., & Tran, T. (2007). Relative socioeconomic advantage and mood during advanced pregnancy in women in Vietnam. International Journal of Mental Health Systems, 1(1), 3.

    https://ịmhs.biomedcentral.com/articles/10.1186/1752-4458-1-3

9. Habib, F. (2018). Comparison of depression and anxiety between housewife and employed pregnant women. International Journal of Nursing.

10. Jhon Freddy Martínez-Paredes, Nathalia Jácome-Pérez (2019), Depression in pregnancy. DOI: 10.1016/j.rcpeng.2017.07.002 . https://www.elsevier.es/en-revista-revista-colombiana-psiquiatria-english-edition--479-articulo-depression-in-pregnancy-S2530312018300651

11. Lara, M. A., Le, H. N., Letechipia, G., & Hochhausen, L. (2009). Prenatal depression in Latinas in the US and Mexico. Maternal and child health Journal, 13(4), 567-576. 

12. ML, L. M. (2009). Major depression in pregnant women served by the National Materno-Perinatal Institute in Lima, Peru. Revista panamericana de salud publica= Pan American journal of public health, 26(4), 310-314.

13. Martínez-Paredes, J. F., & Jácome-Pérez, N. (2019). Depression in pregnancy. Revista Colombiana de psiquiatria (English ed.), 48(1), 58-65.

14. Pereira, P. K., & Lovisi, G. M. (2008). Prevalence of gestational depression and associated factors. Archives of Clinical Psychiatry, 35(4), 144-153.

15. Rezaee, R., & Framarzi, M. (2014). Predictors of mental health during pregnancy. Iranian journal of nursing and midwifery research, 19(7 Suppl1), S45.

16. Yeni, K., Tulek, Z., Simsek, O. F., & Bebek, N. (2018). Relationships between knowledge, attitudes, stigma, anxiety and depression, and quality of life in epilepsy: a structural equation modeling. Epilepsy & Behavior85, 212-217.


Tin mới