Đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại vi sau khi đặt kim luồn tĩnh mạch và một số yếu tố nguy cơ trên người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc

Bài nghiên cứu "Đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch ngoại vi sau khi đặt kim luồn tĩnh mạch và một số yếu tố nguy cơ trên người bệnh nội trú tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc"

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ mắc và phân tích một số yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch ngoại vi theo thang điểm Visual Infusion Phlebitis tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu trên 670 người bệnh có chỉ định đặt và lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc từ tháng 6 năm 2023 đến tháng 11 năm 2023.

Kết quả: Viêm tĩnh mạch xảy ra ở 28,8% ca đặt kim luồn, với tỷ suất phát sinh là 151,4/1000 ngày sử dụng kim luồn tĩnh mạch. Mức độ viêm tĩnh mạch phổ biến thường là độ 1 (27,5%), một số ít viêm độ 2 (1,3%) và không phát hiện viêm tĩnh mạch độ 3 trở lên. Vị trí lưu kim cẳng tay, loại kim luồn Teflon và truyền thuốc kháng sinh được xác định là những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc viêm tĩnh mạch.

Kết luận: Tỷ lệ phát sinh viêm trong quá trình lưu và sử dụng kim luồn tĩnh mạch được báo cáo từ nghiên cứu vẫn còn cao. Do đó, cần phải thúc đẩy các chương trình đào tạo về an toàn trong tiêm truyền và trang bị thẻ Visual Infusion Phlebitis Score cho Điều dưỡng như một công cụ hữu ích để theo dõi, đánh giá và quản lý biến chứng trong quá trình tiêm truyền tĩnh mạch. 

Từ khóa: kim luồn tĩnh mạch ngoại vi, viêm tĩnh mạch ngoại vi.

ABSTRACT

Objective: This study aimed to determine the incidence and risk factors of peripheral phlebitis according to the Visual Infusion Phlebitis scale at Vinh Phuc Provincial General Hospital. Methods: A hospital-based prospective, observational study was conducted on 670 patients prescribed peripheral intravenous catheter insertion at Vinh Phuc Provincial General Hospital between June 2023 to November 2023.

Results: Phlebitis occurred was 28.8% of peripheral intravenous catheters (151.4/1000 catheter days). The most observed phlebitis grade was Grade I (27.5%), while Grade 2 phlebitis was observed in only 1.3% of cases, with no instances documented at Grade 3 or above. The main risk factors for phlebitis were: cannula insertion site in the forearm, Teflon infusion catheter, and use of antibiotic therapy.

Conclusion: This study showed that phlebitis occurrence during peripheral intravenous catheter administration remains significantly high. Therefore, it is necessary to provide training programs on the safety of intravenous infusion and to equip nurses with Visual Infusion Phlebitis Score Cards as a pivotal adjunct for preventing complications throughout the use of peripheral intravenous catheters.

Keywords: peripheral intravenous catheter, peripheral phlebitis.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đặt kim luồn tĩnh mạch ngoại vi là một thủ thuật xâm lấn rất phổ biến được sử dụng tại các bệnh viện, chủ yếu cho các mục đích điều trị như truyền dịch, truyền máu, lấy mẫu máu hoặc dùng thuốc… Trên thế giới, trung bình mỗi năm có khoảng một tỷ kim luồn tĩnh mạch được sử dụng và ước tính có khoảng 59,0% số người bệnh được đặt kim luồn tĩnh mạch ít nhất một lần trong ngày [1]. Việc lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi có thể gây ra các biến chứng cho người bệnh, trong đó phổ biến nhất là viêm tĩnh mạch [2]. Phân tích tổng quan có hệ thống của Luyu Lv (2020) trên 35 nghiên cứu báo cáo cho thấy cứ 100 người bệnh thì có khoảng 27 trường hợp mắc viêm tĩnh mạch khi sử dụng kim luồn tĩnh mạch trong truyền dịch [3]. Tại Việt Nam tùy theo tiêu chuẩn đánh giá, tỷ lệ viêm tĩnh mạch trên người bệnh trong các nghiên cứu trước đây được báo cáo dao động trong khoảng từ 2,6% đến 43,4% [4], [5], [6], [7]. Viêm tĩnh mạch gây ra tình trạng đau tại chỗ, phù, sưng đỏ, có thể sờ thấy tĩnh mạch và khiến người bệnh khó chịu và đau đớn. Nếu không được can thiệp và xử trí kịp thời có thể phát triển thành nhiễm khuẩn huyết, kéo dài thời gian điều trị, tăng chi phí và thậm chí dẫn đến tử vong [2], [8].

Để đánh giá mức độ viêm tĩnh mạch dựa trên các triệu chứng quan sát được trên người bệnh, thang đo mức độ viêm tĩnh mạch Visual Infusion Phlebitis đã ra đời (do Jackson A đề xuất vào năm 1998) và được sử dụng rộng rãi trên toàn thế giới. Thang đo có 6 mức điểm từ 0 (không có dấu hiệu viêm tĩnh mạch) đến 5 (viêm tĩnh mạch tiến triển), mỗi mức tương ứng với từng giải pháp xử trí cụ thể [9]. Tại Việt Nam, trước đây đã một số nghiên cứu tiến hành đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch dựa vào thang điểm VIP (Visual Infusion Phlebitis) và đưa ra đề xuất áp dụng thang điểm này trên lâm sàng nhằm giảm nguy cơ biến chứng cho người bệnh [4], [5]. Tuy nhiên, để củng cố thêm bằng chứng trên lâm sàng nhằm trang bị cho điều dưỡng thẻ VIP và đưa ra các hướng dẫn thực hành để đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch tại vị trí lưu kim ở mỗi thời điểm chăm sóc, từ đó đưa ra chỉ định rút kim đúng thời điểm, góp phần làm giảm tỷ lệ và mức độ viêm tĩnh mạch cho người bệnh, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Đánh giá tỷ lệ mắc và phân tích một số yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch sau đặt kim luồn tĩnh mạch ngoại vi theo thang điểm Visual Infusion Phlebitis trên người bệnh điều trị nội trú, Bệnh viện đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc năm 2023.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Người bệnh có chỉ định đặt và lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi tại bệnh viện Đa khoa tỉnh Vĩnh Phúc từ tháng 6 năm 2023 đến tháng 11 năm 2023. Loại trừ các trường hợp: (1) người bệnh có khiếm khuyết về nhận thức, không tỉnh táo, (2) người bệnh suy giảm miễn dịch hoặc bị nhiễm trùng máu, (3) người bệnh sử dụng buồng tiêm, (4) người bệnh hoặc gia đình người bệnh từ chối tham gia nghiên cứu.

2.2. Phương pháp nghiên cứu

2.2.1. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả tiến cứu.

2.2.2. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu:  Cỡ mẫu được áp dụng công thức ước lượng một tỷ lệ trong quần thể:

 

Trong đó: 

n: cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.

α: mức ý nghĩa thống kê, chọn α=0,05 (tương ứng độ tin cậy 95%)

 =1.96, với α = 0.05.

p: Tỷ lệ Viêm tĩnh mạch tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi (Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là 30,4%) [5].

d: khoảng sai lệch mong muốn  (d = 0.04).

Từ công thức trên, cỡ mẫu tối thiểu ước tính được là 508 người bệnh. Thực tế theo dõi và đánh giá được 670 người bệnh.

2.2.3. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện, nghiên cứu viên sẽ tiến hành lấy mẫu thuận tiện tại các khoa lâm sàng cho đến khi đủ hoặc vượt số lượng dự kiến.

2.3. Tiêu chuẩn chẩn đoán viêm tĩnh mạch

Kim luồn tĩnh mạch ngoại vi được tiến hành đánh giá tình trạng tại thời điểm được rút bỏ. Viêm tĩnh mạch được chẩn đoán và phân độ viêm dựa trên thang điểm VIP, với 6 mức điểm từ 0 (không có dấu hiệu viêm tĩnh mạch) đến 5 (viêm tĩnh mạch tiến triển). Trong đó, điểm VIP ≥ 2 cho thấy sự xuất hiện của viêm tĩnh mạch và kèm theo khuyến cáo rút kim luồn. Tính giá trị và độ tin cậy của VIP đã được đánh giá thông qua các nghiên cứu trước đây và là một trong hai công cụ được Hiệp hội Điều dưỡng Truyền nhiễm Hoa kỳ (INS) khuyến cáo sử dụng [10]. Tại Việt Nam, thang điểm VIP đã được việt hoá và sử dụng để thử nghiệm đánh giá tại một số bệnh viện dưới dạng thẻ cứng đút vừa bao thẻ nhân viên [5], [6].

2.4. Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu sau khi thu thập được làm sạch, nhập vào máy tính với phần mềm Epidata 3.1 và được xử lý bằng phần mềm SPSS 22.0. Thống kê mô tả và thống kê phân tích được áp dụng để mô tả và kiểm định sự khác biệt, nguy cơ tương đối RR cũng được áp dụng với ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.

2.5. Đạo đức nghiên cứu

Nghiên cứu được sự chấp thuận của Hội đồng khoa học Sở Y tế Vĩnh Phúc theo quyết định số 1505/QĐ - SYT. Các thông tin thu thập được ghi nhận chính xác, trung thực từ người bệnh nghiên cứu và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu nhằm bảo vệ và nâng cao sức khoẻ cho người bệnh. Tất cả những người bệnh tiến triển viêm tĩnh mạch được phát hiện đều được điều trị và chăm sóc theo phác đồ điều trị của bệnh viện.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu: 

Bảng 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu

Thông tin chung

Số lượng (n)

Tỷ lệ (%)

Trung bình

X ± SD (min - max)

Tuổi (năm)

66,23 ± 15,76 (18 - 97)

Giới tính

Nam

375

56,0

-

Nữ

295

44,0

BMI

Thể trạng gầy (< 18,5)

72

10,7

19,93 ± 1,68 (13,62 - 35,56)

Bình thường (18,5 - 22,9)

571

85,2

Thừa cân (> 23)

27

4,0

Bệnh kết hợp

Không có bệnh kết hợp

197

29,4

-

Một bệnh kết hợp

373

55,7

Hai bệnh kết hợp trở lên

100

14,9

Nhận xét: Độ tuổi trung bình của người bệnh là 66,23 ± 15,76, với nam giới chiếm tỷ lệ 56,0%. Phần lớn người bệnh có thể trạng bình thường, với chỉ số BMI trong khoảng từ 18,5 đến 22,9 (85,2%) và có ít nhất một bệnh kết hợp kèm theo (70,6%).

3.2. Thông tin chung về sử dụng kim luồn tĩnh mạch ngoại vi: 

Bảng 2. Thông tin chung về sử dụng kim luồn tĩnh mạch ngoại vi

Thông tin chung

Số lượng (n)

Tỷ lệ (%)

Thời gian lưu kim (giờ)

≤ 24 giờ

121

18,1

Từ 25 đến 48 giờ

121

18,1

Từ 49 đến 72 giờ

335

50,0

> 72 giờ

93

13,9

Vị trí đặt

Mu bàn tay

211

31,5

Cổ tay

341

50,9

Cẳng tay

94

14,0

Vị trí khác

24

3,6

Tình trạng yếu liệt tại vị trí đặt

18

2,7

Không

652

97,3

Loại kim luồn

Kim luồn Terumo thường

167

24,9

Kim luồn Teflon

(có cửa bơm và có cánh)

503

75,1

Kích cỡ kim luồn

18 G

71

10,6

20 G

587

87,6

22 G

10

1,5

24 G

2

0,3

Thiết bị kết nối

Không dùng

4

0,6

Chạc ba không dây

26

3,9

Chạc ba có dây

558

83,3

Cổng tiêm không dây

82

12,2

Loại băng gạc cố định

Băng gạc thông thường

12

1,8

Miếng dán vải

650

97,0

Opsite không trong suốt

7

1,0

Opsite trong suốt

1

0,1

Kháng sinh

388

57,9

Không

282

42,1

Nhận xét: Hầu hết kim luồn tĩnh mạch trong nghiên cứu có thời gian lưu kim không vượt quá 72 giờ (86,1%), với cổ tay và mu bàn tay là hai vị trí phổ biến để đặt kim luồn (chiếm tỷ lệ lần lượt là 51,4% và 31,8%). Phần lớn người bệnh được sử dụng kim luồn Teflon (có cánh cùng với cửa bơm), ống thông cỡ 20G, chạc ba có dây và loại băng gạc cố định là miếng dán vải. Tỷ lệ có sử dụng kháng sinh qua kim luồn là 57,9%.

3.3. Tình trạng viêm tĩnh mạch theo thang điểm Visual Infusion Phlebitis Scale

Viêm tĩnh mạch theo đánh giá theo mạch theo thang điểm Visual Infusion Phlebitis Scale

Biểu đồ 1. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch theo thang điểm Visual Infusion Phlebitis Scale

Viêm tĩnh mạch phát sinh theo thời gian lưu kim

Nhận xét: Mức độ viêm tĩnh mạch phổ biến thường là độ 1 (27,5%), một số ít trường hợp xuất hiện viêm tĩnh mạch ở độ 2 (1,3%) và không có trường hợp nào được ghi nhận ở mức độ 3 trở lên.

Biểu đồ 2. Tỷ lệ viêm tĩnh mạch phát sinh theo thời gian lưu kim

Nhận xét: Phần lớn viêm tĩnh mạch được phát hiện chủ yếu trong 2 ngày đầu lưu kim. Tỷ suất viêm tĩnh mạch là 151,4/1000 ngày sử dụng kim luồn tĩnh mạch ngoại vi.

3.4. Một số yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch: 

Bảng 3. Một số yếu tố liên quan đến tình trạng viêm tại vị trí lưu kim

Yếu tố nguy cơ

Viêm tĩnh mạch

RR (95% CI)

p

n (%)

Không

n (%)

Yếu tố liên quan đến người bệnh

Tuổi

≥ 60 tuổi

144 (29,7)

341 (70,3)

1,12

(0,85 - 1,48)

0,41

< 60 tuổi

49 (26,5)

136 (73,5)

1

Giới tính

Nữ

86 (29,2)

209 (70,8)

1,02

(0,80 - 1,30)

0,86

Nam

107 (28,5)

268 (71,5)

1

BMI

Thể trạng gầy

26 (36,1)

46 (63,9)

1,29

(0,92 - 1,80)

0,15

Thừa cân

7 (25,9)

20 (74,1)

0,93

(0,48 - 1,77)

0,81

Bình thường

160 (28,0)

411 (72,0)

1

 

Bệnh kết hợp

Một bệnh kết hợp

99 (26,5)

274 (73,5)

0,80

(0,62 - 1,04)

0,11

Hai bệnh kết hợp trở lên

29 (29,0)

71 (71,0)

0,88

(0,61 - 1,27)

0,48

Không có bệnh kết hợp

65 (33,0)

132 (67,0)

1

 

Yếu tố liên quan đến sử dụng kim luồn tĩnh mạch

Vị trí đặt

Mu bàn tay

54 (25,6)

157 (74,4)

0,63

(0,45 - 0,89)

0,01

Cổ tay

92 (27,0)

249 (73,0)

0,67

(0,49 - 0,90)

0,012

Vị trí khác

9 (37,5)

15 (62,5)

0,93

(0,52 - 1,64)

0,79

Cẳng tay

38 (40,4)

56 (59,6)

1

 

Tình trạng yếu liệt tại vị trí đặt

8(44,4)

10 (55,6)

1,57

(0,92 - 2,66)

0,14

Không

185 (28,4)

467 (71,6)

1

Loại kim luồn

Kim luồn Terumo thường

37 (22,2)

130 (77,8)

1

0,03

Kim luồn Teflon (có cửa bơm và có cánh)

156 (31,0)

347 (69,0)

1,40

(1,02 - 1,91)

Kích cỡ kim luồn

18 G

13 (18,3)

58 (81,7)

1

0,04

Nhỏ hơn 18 G

180 (30,1)

419 (69,9)

1,64

(0,99 - 2,72)

Thiết bị kết nối

Có dây

187 (29,2)

453 (70,8)

1,27

(0,62 - 2,58)

0,50

Không dây

6 (23,1)

20 (76,9)

1

Kháng sinh

126 (32,5)

262 (67,5)

1,37

(1,06 - 1,76)

0,01

Không

67 (23,8)

215 (76,2)

1

Nhận xét: Phân tích các yếu tố độc lập liên quan đến nguy cơ phát sinh viêm tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi cho thấy: vị trí đặt kim luồn ở mu bàn tay (RR = 0,63; 95% CI: 0,45 - 0,89; p = 0,01) và cổ tay (RR = 0,67; 95% CI: 0,49 - 0,90; p = 0,012) có nguy cơ phát sinh viêm tĩnh mạch thấp hơn so với vị trí đặt kim luồn ở cẳng tay, loại kim luồn Teflon với cánh cùng với cửa bơm có nguy cơ phát sinh viêm tĩnh mạch cao hơn kim luồn terumo thông thường (RR = 1,40; 95% CI: 1,02 - 1,91; p = 0,03) và truyền thuốc kháng sinh có nguy cơ cao hơn dẫn đến phát sinh viêm tĩnh mạch (RR = 1,37; 95% CI: 1,06 - 1,76; p = 0,01).

4. BÀN LUẬN

4.1. Tình trạng phát sinh viêm tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi

Trong nghiên cứu này cho thấy tỷ lệ viêm tĩnh mạch chiếm 28,8%, cao hơn nhiều so với tỷ lệ 5,0% là ngưỡng có thể chấp nhận được do Hiệp hội Điều dưỡng tiêm truyền Hoa Kỳ (INS) khuyến cáo [10]. Tại Việt Nam, tùy thuộc vào tiêu chuẩn chẩn đoán được áp dụng, phương pháp thiết kế nghiên cứu và kỹ thuật phân tích mà tỷ lệ phát sinh viêm tĩnh mạch được báo cáo trong các nghiên cứu trước đây rất khác nhau, ước tính dao động từ 2,6% đến 43,4% [4], [5], [6], [7]. Về mức độ viêm, chỉ một số ít trường hợp xuất hiện viêm tĩnh mạch ở độ 2, chiếm tỷ lệ 1,34%, và không ghi nhận trường hợp nào ở mức độ 3 trở lên. Kết quả này cho thấy thấp hơn nhiều so với nghiên cứu của tác giả Mulugeta Lulie (2021) khi cho thấy viêm tĩnh mạch độ 3 và độ 4 lần lượt chiếm tỷ lệ 51% và 33% [11]. Tại Việt Nam, với cùng một tiêu chuẩn đánh giá một số tác giả cho thấy kết quả cao hơn nhiều so với nghiên cứu của chúng tôi: Chu Văn Long (2022) với 13,7% trường hợp viêm tĩnh mạch độ 2 trong nghiên cứu nguyên nhân do viêm tĩnh mạch độ 1 tiến triển thành [6] và Lâm Thị Nhung (2021) báo cáo cho thấy viêm tĩnh mạch độ 2 xuất hiện ở 8,5% trường hợp và chỉ có một số ít xuất hiện viêm độ 3 (0,6%) [5].  

Về thời gian phát sinh viêm tĩnh mạch, phần lớn viêm tĩnh mạch được phát hiện chủ yếu trong 2 ngày đầu lưu kim, với tỷ suất phát sinh là 151,4/1000 ngày sử dụng kim luồn tĩnh mạch. Các phát hiện tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của tác giả Lâm Thị Nhung (2021) và Chu Văn Long (2022) khi cùng cho thấy viêm tĩnh mạch xảy ra chủ yếu trong 3 ngày đầu lưu kim [5], [6]. Mặc dù, các nghiên cứu trước đây cho thấy khi lưu kim luồn tĩnh mạch trong thời gian dài sẽ làm tăng nguy cơ mắc viêm tĩnh mạch [3], [11] và khuyến cáo kim luồn tĩnh mạch ngoại vi nên được thay trong vòng 72 - 96 giờ để giảm nguy cơ nhiễm trùng và viêm tĩnh mạch. Tuy nhiên, trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, viêm tĩnh mạch xuất hiện chủ yếu ở 2 ngày đầu lưu kim và phần lớn viêm ở mức độ 1. Điều này cho thấy việc xác định sớm các dấu hiệu viêm từ đó đưa ra chỉ định rút kim đúng thời điểm sẽ làm giảm các biến chứng cho người bệnh.

4.2. Một số yếu tố liên quan đến viêm tĩnh mạch

Trong nghiên cứu này, chúng tôi thấy rằng việc đặt đặt kim luồn ở mu bàn tay (RR = 0,63; 95% CI: 0,45 – 0,89; p = 0,01) và cổ tay (RR = 0,67; 95% CI: 0,49 – 0,90; p = 0,012) làm giảm đáng kể nguy cơ phát sinh viêm tĩnh mạch so với vị trí đặt kim luồn ở cẳng tay. Các phát hiện tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Lâm Thị Nhung (2021) và Luyu Lv (2020) khi cùng báo cáo cho thấy cẳng tay là vị trí có nguy cơ phát sinh viêm tĩnh mạch cao hơn so với các vị trí khác [3], [5]. Mặc dù, trong một số báo cáo khác có thể cho thấy kết quả ngược lại [6], [10]. Tuy nhiên, theo hướng dẫn của Bộ Y tế (2012) nên tránh đặt kim luồn tĩnh mạch tại các khúc gập như khuỷu tay, cổ tay nhằm giảm các tác động cơ do cọ sát với lớp tế bào nội mô của tĩnh mạch trong quá trình lưu kim [12]. Ngoài ra, việc sử dụng loại kim luồn Teflon (RR = 1,40; 95% CI: 1,02 – 1,91; p = 0,03) và truyền thuốc kháng sinh (RR = 1,37; 95% CI: 1,06 – 1,76; p = 0,01) cũng cho thấy là các yếu tố độc lập làm tăng nguy cơ phát sinh viêm tĩnh mạch. Các kết quả tương tự cũng được tìm thấy trong nghiên cứu của Luyu Lv (2020) và Abhijit Mandal (2019) [3], [13]. Giả thuyết có thể đặt ra là trong quá trình đặt truyền, kim luồn sẽ làm tổn thương một số tế bào nội mô trong tĩnh mạch, đặc biệt nếu dịch truyền gây kích ứng cơ chế bảo vệ bình thường của cơ thể có thể dẫn đến sự phát sinh của viêm tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch. Tuy nhiên, vẫn cần phải thực hiện các nghiên cứu sâu hơn trong tương lai để hiểu rõ hơn về cơ chế và tác động của những yếu tố này.

5. KẾT LUẬN

Tỷ lệ phát sinh viêm trong quá trình lưu và sử dụng kim luồn tĩnh mạch ngoại vi còn khá cao (28,8%). Phần lớn viêm tĩnh mạch được phát hiện chủ yếu trong 2 ngày đầu lưu kim, với tỷ suất viêm tĩnh mạch được xác định là 151,4/1000 ngày sử dụng kim luồn. Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy vị trí lưu kim cẳng tay, loại kim luồn Teflon và truyền thuốc kháng sinh là những yếu tố làm tăng nguy cơ mắc viêm tĩnh mạch.

6. KHUYẾN NGHỊ 

Cần thúc đẩy các chương trình đào tạo về an toàn trong tiêm truyền tĩnh mạch và trang bị thẻ Visual Infusion Phlebitis Score cho Điều dưỡng như một công cụ hữu ích để theo dõi, đánh giá tình trạng viêm tĩnh mạch cho người bệnh có lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại vi trước khi thực hiện tiêm truyền hằng ngày.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Alexandrou E., Ray-Barruel G., Carr P., et al. (2015). International prevalence of the use of peripheral intravenous catheters: Prevalence of the Use of PIVCs. J Hosp Med, 10.

2. Miliani K., Taravella R., Thillard D., et al. (2017). Peripheral Venous Catheter-Related Adverse Events: Evaluation from a Multicentre Epidemiological Study in France (the CATHEVAL Project). PloS One, 12(1), e0168637.

3. Luy Lv. and Zhang J. (2020). The incidence and risk of infusion phlebitis with peripheral intravenous catheters: A meta-analysis. J Vasc Access, 21(3): p. 342–349.

4. Đinh Thị Vân Anh, Nguyễn Hoàng Long, Nguyễn Thị Hồng Anh, et al. (2022). Tỷ lệ viêm tĩnh mạch ngoại vi sau khi áp dụng gói chăm sóc đường truyền tại bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec Times City. Tạp Chí Điều Dưỡng, (32): p. 87–92.

5. Lâm Thị Nhung, Trương Quang Trung, and Lê Thị Cúc (2021). Viêm tĩnh mạch tại vị trí lưu kim luồn tĩnh mạch ngoại biên và một số yếu tố liên quan tại Bệnh viện Đại học Y Hà Nội. Tạp Chí Nghiên Cứu Học, 145(9): p. 85–92.

6. Chu Văn Long and Đông Văn Hệ (2022). Nghiên cứu nguy cơ viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi tại Bệnh viện hữu nghị Việt Đức. Tạp Chí Khoa Học Điều Dưỡng, 03(04): p. 33–42.

7. Trần Thị Lý, Cao Thị Hồng Hà, and Lê Văn Nhân (2023). Đặc điểm viêm tĩnh mạch sau đặt catheter tĩnh mạch ngoại vi trên người bệnh tại Bệnh viện Phổi trung ương. Tạp Chí Học Việt Nam, 529(2).

8. Zingg W., Barton A., Bitmead J., et al. (2023). Best practice in the use of peripheral venous catheters: A scoping review and expert consensus. Infect Prev Pract, 5(2), 100271.

9. Jackson A. (1998). Infection control a battle in vein: infusion phlebitis. Nurs Times, 94(4): p. 68 - 71.

10. Gorski L.A., Hadaway L., Hagle M.E., et al. (2021). Infusion Therapy Standards of Practice, 8th Edition. J Infus Nurs Off Publ Infus Nurses Soc, 44(1S Suppl 1), S1–S224.

11. Lulie M., Tadesse A., Tsegaye T., et al. (2021). Incidence of peripheral intravenous catheter phlebitis and its associated factors among patients admitted to University of Gondar hospital, Northwest Ethiopia: a prospective, observational study. Thromb J, 19, 48.

12. Bộ Y Tế (2012). Phác đồ số 3671/QĐ-BHYT: Hướng dẫn phòng ngừa nhiễm khuẩn huyết trên người bệnh đặt catheter trong lòng mạch.

13. Mandal A. and Raghu K. (2019). Study on incidence of phlebitis following the use of pherpheral intravenous catheter. J Fam Med Prim Care, 8(9): p. 2827–2831.

 


Tin liên quan

Tin mới