Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não và một số yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh Viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An năm 2024

NCKH: Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não và một số yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh Viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An năm 2024

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức dự phòng đột quỵ não và một số yếu tố liên quan của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An năm 2024.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 372 người bệnh đái tháo đường type 2, phỏng vấn trực tiếp bằng bộ câu hỏi chuẩn hóa.

Kết quả: Tỷ lệ người bệnh có kiến thức chung đạt yêu cầu về dự phòng đột quỵ não là 60,2%. Nhận thức đúng về cơ quan tổn thương chiếm 89%, về khả năng dự phòng 58,1% và nguy cơ tái phát 30,4%. Kiến thức về yếu tố nguy cơ đạt 62,6% và về thực hành dự phòng đạt 67,5%. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê gồm: trình độ học vấn, thời gian mắc bệnh và tiền sử gia đình có người bị đột quỵ (p<0,05).

Kết luận: Kiến thức dự phòng đột quỵ não của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú còn hạn chế. Cần tăng cường hoạt động tư vấn – giáo dục sức khỏe định kỳ, nội dung phù hợp với đặc điểm cá nhân và trình độ học vấn của người bệnh.

Từ khóa: Đột quỵ não, dự phòng, đái tháo đường type 2.

 

ABSTRACT:

Objective: To describe the knowledge of stroke prevention and related factors among outpatients with type 2 diabetes at Nghe An Friendship General Hospital in 2024.

Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted on 372 outpatients with type 2 diabetes using structured face-to-face interviews.

Results: Overall, 60.2% of patients demonstrated adequate knowledge of stroke prevention. Specifically, 89% identified the brain as the affected organ, 58.1% acknowledged stroke as preventable, and 30.4% were aware of recurrence risk. Adequate knowledge rates on risk factors and preventive practices were 62.6% and 67.5%, respectively. Education level, disease duration, and family history of stroke were significantly associated with knowledge levels (p<0.05).

Conclusions: Knowledge of stroke prevention among type 2 diabetes outpatients remains suboptimal. Regular health education programs tailored to patients’ educational background and individual characteristics are recommended.

Keywords: Stroke prevention, type 2 diabetes, knowledge.

 

  1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Đái tháo đường (ĐTĐ) là bệnh rối loạn chuyển hóa ngày càng phổ biến tại Việt Nam cũng như toàn thế giới. Theo thống kê của Liên đoàn đái tháo đường quốc tế (IDF), năm 2021 thế giới có 537 triệu người mắc ĐTĐ trong độ tuổi từ 20 – 79 tuổi, dự đoán tăng lên 643 triệu người năm 2030 và 783 triệu người năm 2045 [10]. Đột quỵ não (ĐQN) là một biến chứng nghiêm trọng của bệnh ĐTĐ với nguy cơ cao gấp 1,5 đến 3 lần so với người không mắc bệnh ĐTĐ [8]. ĐQN là bệnh thường gặp, bệnh cảnh đột ngột, cấp tính, di chứng nặng nề, tỉ lệ tử vong đứng hàng thứ ba sau bệnh ung thư và tim mạch, là gánh nặng cho người bệnh, gia đình xã hội.

Tổ chức Y tế thế giới đã khẳng định ĐQNthể dự phòng hiệu quả nếu nhận thức tốt các yếu tố nguy cơ, phát hiện sớm các dấu hiệu và được điều trị kịp thời sẽ làm giảm tỉ lệ tử vong, di chứng cho người bệnh. Vì vậy, việc nâng cao kiến thức dự phòng ĐQN cho người bệnh ĐTĐ rất quan trọng và cần thiết.

Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An là bệnh viện tuyến cuối của khu vực Bắc Trung Bộ, tiếp nhận điều trị cho hàng nghìn lượt người bệnh bị ĐTĐ type 2 biến chứng nhưng chưa có nghiên cứu đánh giá kiến thức dự phòng ĐQN trên nhóm đối tượng này. Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm mô tả thực trạng kiến thức và một số yếu tố liên quan đến dự phòng ĐQN ở người bệnh ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú tại bệnh viện.

  1. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu:

Người bệnh được chẩn đoán ĐTĐ type 2 điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội tiết – ĐTĐ, Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An.

Tiêu chuẩn chọn mẫu: Người bệnh ĐTĐ type 2 đang điều trị ngoại trú tại phòng khám Nội Tiết – ĐTĐ trong thời gian thu thập số liệu; đồng ý, tự nguyện tham gia nghiên cứu; có khả năng tiếp nhận và trả lời bộ câu hỏi phỏng vấn.

Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh có bệnh nặng có chỉ định vào viện điều trị nội trú.

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Từ tháng 12/2023 đến tháng 9/2024 tại phòng khám Nội tiết – ĐTĐ, Bệnh viện Hữu Nghị Đa Khoa Nghệ An.

2.3. Thiết kế nghiên cứu:

Nghiên cứu mô tả cắt ngang

2.4. Mẫu và phương pháp chọn mẫu

Chọn mẫu thuận tiện. Nghiên cứu chọn toàn bộ 372 người bệnh ĐTĐ type 2 đáp ứng đủ các tiêu chuẩn chọn mẫu trong thời gian thu thập số liệu.

2.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu

Bộ công cụ thu thập số liệu được xây dựng dựa trên tài liệu của Bộ Y tế về “Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí đột quỵ não”(2020) [2], bộ công cụ trong nghiên cứu của tác giả Sarafadeen Adeniyi Arisegi và cộng sự (2018) [7] và tác giả Xaysanith Manichanh nghiên cứu về thực trạng kiến thức dự phòng đột quỵ não của bệnh nhân đái tháo đường type 2 [1].

Số liệu được thu thập bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp người bệnh dựa vào bộ câu hỏi nghiên cứu trong khi chờ đợi khám và chờ kết quả xét nghiệm.

2.6. Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu được xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0 thống kê mô tả các biến số và giá trị trung bình. Tìm mối liên quan giữa hai biến bằng hệ số tương quan Pearson và kiểm định Chi square.

2.7. Đạo đức nghiên cứu

Đề tài được Hội y đức của Bệnh viện Hữu nghị Đa khoa Nghệ An phê duyệt. Nội dung nghiên cứu nhằm bảo vệ và nâng cao sức khỏe người bệnh, không nhằm mục đích nào khác.

  1. KẾT QUẢ

     3.1. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu (ĐTNC)

Trong nghiên cứu, người bệnh chủ yếu là nam giới chiếm tỉ lệ 64,5%; Độ tuổi từ 60 tuổi trở lên chiếm tỉ lệ cao nhất (86,5%); phần lớn có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở lên (90,9%); Nghề nghiệp phổ biến là hưu trí (62,6%). Tỉ lệ mắc bệnh ĐTĐ type 2 trên 5 năm (65,4%) và 100% có mong muốn được tư vấn về dự phòng bệnh ĐQN.

     3.2. Thực trạng kiến thức dự phòng đột quỵ não của ĐTNC

                 Bảng 3.1. Kiến thức đúng về bệnh đột quỵ não (N=372)

 

Nội dung

Trả lời đúng

N

%

Kiến thức đúng về đặc điểm bệnh Đột quỵ não

Cơ quan bị tổn thương của đột quỵ não là não bộ

331

89,0

Bệnh đột quỵ não thường xảy ra đột ngột

355

95,4

Bệnh đột quỵ não rất nguy hiểm, dễ tử vong, dễ gây tàn tật

372

100

Bệnh đột quỵ não có thể dự phòng được

216

58,1

Bệnh đột quỵ não có thể bị tái phát

113

30,4

Kiến thức đúng về dấu hiệu bệnh đột quỵ não

Đau đầu đột ngột và dữ dội

169

45,4

Đột nhiên chóng mặt hoặc mất thăng bằng

87

23,4

Đột ngột mất trí nhớ

82

22

Đột ngột giảm hoặc mất thị lực

80

21,5

Đột ngột khó nói

330

88,7

Khó nuốt

164

44,1

Đột ngột yếu hoặc liệt 1 bên người

372

100

Đột ngột yếu hoặc liệt toàn thân

371

99,7

Nhận xét: có 89% người bệnh biết não bộ là cơ quan tổn thương của ĐQN; chỉ có 58,1% biết bệnh ĐQN có thể dự phòng được và có 30,4% biết bệnh có thể bị tái phát. Đa số người bệnh biết các dấu hiệu yếu hoặc liệt một bên người hoặc toàn thân, còn các dấu hiệu giảm hoặc mất thị lực, mất trí nhớ đạt tỉ lệ thấp lần lượt là 21,5% và 22%.

Bảng 3.2. Kiến thức đúng về các yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não (N=372)

Nội dung

Trả lời đúng

N

%

Không tập thể dục thường xuyên

357

96,0

Thừa cân hoặc béo phì

158

42,5

Hút thuốc lá/ thuốc lào

158

42,5

Tăng huyết áp

367

98,7

Đái tháo đường

287

77,2

Ăn thực phẩm chứa nhiều dầu mỡ

165

44,4

Uống rượu nhiều

214

57,5

Bệnh tim mạch

353

94,9

Tiền sử bị đột quỵ não

185

49,7

Nhận xét: Tỉ lệ người bệnh biết ĐTĐ là yếu tố nguy cơ gây ĐQN đạt 77,2%. Các yếu tố nguy cơ khác có tỷ lệ nhận biết thấp hơn, gồm: thừa cân/béo phì và hút thuốc lá/thuốc lào (42,5%), ăn thực phẩm nhiều dầu mỡ (44,4%).

Bảng 3.3. Kiến thức đúng về thực hành dự phòng đột quỵ não (N=372)

Nội dung

Trả lời đúng

N

%

Tham gia tập thể dục thường xuyên

366

98,4

Theo dõi trọng lượng cơ thể thường xuyên

138

37,1

Giảm hoặc bỏ hút thuốc lá

208

55,9

Hạn chế thức ăn chứa nhiều muối

250

67,2

Hạn chế thức ăn nhiều dầu mỡ

198

53,2

Ăn trái cây, rau thường xuyên

352

94,6

Tránh uống nhiều rượu bia

231

62,1

Tuân thủ điều trị thuốc bệnh đái tháo đường

331

89,0

Tái khám đúng theo lịch hẹn của bác sĩ

370

99,5

Nhận xét: Có 89% người bệnh tuân thủ điều trị thuốc ĐTĐ; có 37,1% người bệnh biết theo dõi trọng lượng cơ thể thường xuyên; 53,2% biết hạn chế thức ăn nhiều dầu mỡ và 55,9% biết giảm hoặc bỏ thuốc lá.

Hình 1. Tỉ lệ kiến thức chung về dự phòng đột quỵ não

Có 60,2% người bệnh có kiến thức chung đạt về dự phòng bệnh đột quỵ não.

     3.3. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức dự phòng đột quỵ não

Bảng 3.4. Liên quan giữa môt số yếu tố đến kiến thức chung dự phòng ĐQN

Các yếu tố

Phân loại kiến thức

(n=372)

p

 

Đạt

N (%)

Không đạt

N (%)

 

 

Giới tính

Nam

148 (61,7)

92 (38,3)

0,441

 

Nữ

76 (57,6)

56 (42,4)

 

Nhóm tuổi

<45T

3 (75)

1 (25)

0,461

 

Từ 45T đến 60T

31 (67,4)

15 (32,6)

 

≥60T

190 (59)

132 (41)

 

Trình độ học vấn

Tiểu học

1 (2,9)

33 (97,1)

< 0,01

 

Trung học cơ sở

21 (26,6)

58 (73,4)

 

Trung học phổ thông

74 (60,7)

48 (39,3)

 

Từ THPT trở lên

128 (93,3)

9 (6,6)

 

Thời gian mắc bệnh

< 1 năm

7 (46,7)

8 (53,3)

< 0,01

 

1-5 năm

52 (45,6)

62 (54,4)

 

>5 năm

165 (67,9)

78 (32,1)

 

Tiền sử gia đình có người mắc đột quỵ não

56 (84,8)

10 (15,2)

< 0,01

Không

168 (54,9)

138 (45,1)

                 

Nhận xét: Tuổi và giới tính không có mối liên quan đến kiến thức dự phòng đột quỵ não của người bệnh (p > 0,05). Ngược lại, trình độ học vấn cao, thời gian mắc ĐTĐ type 2 dài hơn và có tiền sử gia đình bị đột quỵ có liên quan đến mức kiến thức dự phòng cao hơn, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05).

  1. BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng kiến thức dự phòng đột quỵ não

Đột quỵ là một bệnh lý gây tổn thương nghiêm trọng cho não bộ. Nghiên cứu cho thấy phần lớn người bệnh có nhận thức đúng về cơ quan tổn thương (89%); tính chất đột ngột (95,4%); mức độ nguy hiểm (100%) của bệnh đột quỵ. Kết quả này cũng tương tự nghiên cứu của Arisegi và cộng sự có 89,1% người bệnh trả lời đúng về cơ quan tổn thương [7]; tương đồng với nghiên cứu của Đinh Thị Yến với 98,9% ý thức được mức độ nguy hiểm của bệnh [6]. Tuy nhiên chỉ 58,1% biết bệnh có thể dự phòng và 30,4% biết bệnh có thể tái phát. Việc hiểu đúng về cơ quan tổn thương và mức độ nguy hiểm của bệnh giúp người bệnh có thái độ xử trí tốt hơn.

Trong nghiên cứu, mặc dù người bệnh có nhận thức khá tốt về các dấu hiệu điển hình của đột quỵ như liệt nửa người, liệt toàn thân và rối loạn ngôn ngữ, nhưng khả năng nhận diện các dấu hiệu không điển hình như mất thị lực, mất trí nhớ và đau đầu dữ dội còn thấp hơn kết quả của tác giả Đỗ Thị Thu Hiền, tỉ lệ đau đầu dữ dội là 55,6%; mất thị lực là 72,2% [3]. Trong xử trí, dù đa số biết cần đưa bệnh nhân đến bệnh viện càng sớm càng tốt (99,7%) cao hơn kết quả của tác giả Duque và cộng sự có 69,5% biết gọi cấp cứu [9] nhưng vẫn có tới 76,1% áp dụng xử trí sai cách như xoa bóp, cạo gió. Điều này cho thấy mặc dù người bệnh có kiến thức về nhận biết dấu hiệu đột quỵ, nhưng còn thiếu kiến thức về cách xử trí đúng.

Về các yếu tố nguy cơ, 62,6% người bệnh có kiến thức đúng, thấp hơn kết quả nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền là 72,6%; Đinh Thị Yến là 66,7% và của Arisegi là 86,6% [3] [6] [7]. Nhận biết tốt các yếu tố như tăng huyết áp, bệnh tim mạch và ít vận động, nhưng hiểu biết về béo phì và hút thuốc lá còn thấp (42,5%); ăn thực phẩm chứa nhiều dầu mỡ 44,4%. Đáng chú ý, 22,8% không biết ĐTĐ là yếu tố nguy cơ, dù bản thân đang mắc bệnh. Nhận thức chưa đầy đủ về các yếu tố nguy cơ ảnh hưởng đến hành vi phòng ngừa bệnh.

Trong các biện pháp phòng ngừa, nhận thức tốt vai trò của tập thể dục, khám sức khỏe định kỳ và dinh dưỡng lành mạnh. Tuy nhiên, nhận thức về kiểm soát cân nặng và giảm muối còn hạn chế, tương đồng với nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền [3] có 62,5% chưa theo dõi trọng lượng cơ thể và 41,5% chưa giảm muối.

Tổng điểm kiến thức trung bình đạt 25,59 ± 4,88/38 điểm, với 60,2% đạt mức kiến thức đạt, thấp hơn so với nghiên cứu của Arisegi 90,8% [7], Đỗ Thị Thu Hiền 71,8% [3]. Trong nghiên cứu này chúng tôi muốn nhấn mạnh sự cần thiết của việc tư vấn giáo dục sức khoẻ cho người bệnh về các dấu hiệu, triệu chứng và cách xử trí và các yếu tố nguy cơ, cách dự phòng của bệnh đột quỵ não trong những lần đi khám tại phòng khám.

4.2. Một số yếu tố liên quan đến kiến thức dự phòng đột quỵ não

Nghiên cứu cho thấy không có mối liên quan giữa tuổi, giới tính với kiến thức dự phòng ĐQN ở người bệnh ĐTĐ type 2 (p>0,05), phù hợp với các nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền (2020) và Duque (2015) [4] [9].Tuy nhiên, tuổi cao vẫn là yếu tố nguy cơ quan trọng của ĐQN, và tỉ lệ mắc đang gia tăng ở người trẻ do các thói quen xấu như lạm dụng rượu bia, thuốc lá và lối sống ít vận động.

Trình độ học vấn có mối liên quan với tất cả các nhóm kiến thức (p<0,05), tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước [7][1][6][9]. Trình độ tiểu học chỉ có 2,9% người bệnh có kiến thức đạt, cao nhất là trình độ từ trung học phổ thông trở lên có 93,3% người bệnh có kiến thức đạt. Người học vấn cao có khả năng tiếp cận, tiếp nhận và ứng dụng thông tin sức khỏe tốt hơn, cho thấy cần cá nhân hóa nội dung tư vấn theo trình độ để nâng cao hiệu quả truyền thông.

Thời gian mắc bệnh ĐTĐ có mối liên quan với kiến thức dự phòng (p < 0,05). Người mới mắc có xu hướng chủ động tìm hiểu, trong khi người bệnh lâu năm đa phần lớn tuổi có thể gặp khó khăn về tiếp cận và ghi nhớ thông tin. Kết quả này phù hợp với Manichanh (2022) [1], nhưng khác với nghiên cứu của Đỗ Thị Thu Hiền [4].

Tiền sử gia đình có người bị đột quỵ cũng liên quan đến kiến thức dự phòng ĐQN (p<0,05): người bệnh có người bị ĐQN có kiến thức đạt 84,8%, trong khi người bệnh không có người bị ĐQN chỉ có 54,9% kiến thức đạt. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của các tác giả Trần Hồng Nhung [5] và Manichanh [1]. Người bệnh có người thân từng đột quỵ thường chủ động học hỏi trong quá trình chăm sóc, góp phần nâng cao nhận thức và hành vi phòng bệnh.

  1. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

Người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Bệnh viện Hữu Nghị Đa khoa Nghệ An có mức kiến thức về dự phòng đột quỵ não còn hạn chế, chỉ 60,2% đạt yêu cầu. Nhận thức về khả năng dự phòng, nguy cơ tái phát và một số yếu tố nguy cơ (đái tháo đường, hút thuốc lá, chế độ ăn uống) còn chưa đầy đủ. Các yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê đến kiến thức dự phòng bao gồm: trình độ học vấn, thời gian mắc bệnh và tiền sử gia đình có người bị đột quỵ.

Khuyến nghị

  • Tăng cường tư vấn – giáo dục sức khỏe định kỳ cho người bệnh ĐTĐ type 2, đặc biệt tập trung vào kiến thức về nguy cơ tái phát, yếu tố nguy cơ và cách xử trí đúng khi có dấu hiệu đột quỵ.
  • Thiết kế nội dung truyền thông phù hợp với trình độ học vấn và đặc điểm cá nhân, để nâng cao khả năng tiếp nhận và thực hành dự phòng.
  • Lồng ghép hoạt động giáo dục đột quỵ trong các lần tái khám, bảo đảm tính thường xuyên và khả thi trong điều kiện lâm sàng.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

  1. Trương Tuấn Anh và Manichanh Xaysanith (2022), Thực trạng kiến thức dự phòng đột quỵ não của người bệnh đái tháo đường type 2 điều trị ngoại trú tại Trung tâm Y tế Thành phố Nam Định năm 2022. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 2022. 5(04): tr. 171–178.
  2. Bộ Y tế, Hướng dẫn chẩn đoán và xử trí đột quỵ não (2020). Ban hành kèm theo Quyết định số 5331/QĐ-BYT ban hành ngày 23/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
  3. Đỗ Thị Thu Hiền và các cộng sự (2020). Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type 2 tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương năm 2020. Tạp chí Khoa học Điều dưỡng, 2020. 3(2): tr. 106–114.
  4. Đỗ Thị Thu Hiền và các cộng sự (2021), Đánh giá một số yếu tố liên quan đến kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi đang điều trị đái tháo đường tại Bệnh viện Nội tiết Trung Ương năm 2020. Tạp chí Y học Việt Nam, 2021. 503(2).
  5. Trần Hồng Nhung (2014), Kiến thức thực hành phòng tai biến mạch máu não và một số yếu tố liên quan của người cao tuổi phường Đức Giang quận Long Biên Hà Nội, 2014. Đại học Y tế công cộng.
  6. Đinh Thị Yến và Nguyễn Thị Thủy (2024). Thay đổi nhận thức về đột quỵ não của người cao tuổi tại xã Giao Lạc – Giao Thủy Nam Định sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Tạp chí Y học Việt Nam, 2024. 538(3): tr. 165–169.
  7. Arisegi, Sarafadeen Adeniyi, et al (2018). “Knowledge and practices related to stroke prevention among hypertensive and diabetic patients attending Specialist Hospital, Sokoto, Nigeria”. Pan African Medical Journal, 2018. 29(1): 1–17.
  8. Chen Rong, Bruce Ovbiaele, Wuwei Feng (2016). Diabetes and Stroke: Epidemiology, Pathophysiology, Pharmaceuticals and Outcomes, The American Journal of the Medical Sciences, 2016 Apr, 351(4): 380–386. DOI: 10.1016/j.amjms.2016.01.011.
  9. Duque, Ana Sofia (2015) "Awareness of stroke risk factors and warning signs and attitude to acute stroke", International Archives of Medicine, 2015. 8:1.
  10.  International Diabetes Federation (2021). IDF Diabetes Atlas, Belgium: 2021. Available from: https://www.diabetesatlas.org

 


Tin mới