Thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da và cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường tại Khoa Phụ sản tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông năm 2024

Nghiên cứu khoa học về thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da và cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường tại Khoa Phụ sản tại Bệnh viện Đa khoa Hà Đông năm 2024

TÓM TẮT

Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da và cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường tại Bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2024.

Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang, được thực hiện trên 186 Sản phụ sau đẻ thường tại khoa Phụ sản bệnh viện đa khoa Hà Đông. Nghiên cứu được tiến hành từ tháng 01 - 9/2024.

Kết quả: Kiến thức về phương pháp da kề da của sản phụ đạt 76,3% (trong đó 95,2% biết về phương pháp, nhưng chỉ 59,7% biết về thời gian thực hiện). Tuy nhiên, tỷ lệ thực hành da kề da đạt chỉ 36,6% (với 55,4% trẻ được tiếp xúc da kề da, nhưng chỉ 38,7% đúng tư thế và 36,6% đạt thời gian liên tục 30-90 phút). Kiến thức nuôi con bằng sữa mẹ của sản phụ về sữa non và lợi ích bú sớm đạt 81,7% (95,2% biết sữa non, 72,6% biết thời điểm bú trong giờ đầu). Thực hành cho trẻ bú sớm và bú đúng đạt 81,2%. Tỷ lệ sản phụ âu yếm vuốt ve con rất cao (93,5%), nhưng tỷ lệ cho trẻ bú đều hai bên vú thấp nhất (67,7%).

Kết luận: Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ kiến ​​thức, thực hành phương pháp da kề da và cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường đạt mức khá. Bệnh viện cần tiếp tục hoàn thiện các quy trình chăm sóc người bệnh, nhất là các hướng dẫn thực hiện phương pháp da kề da; tổ chức lớp tiền sản cho sản phụ, nâng cấp cơ sở vật chất và giám sát, cải thiện chất lượng chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh.

Từ khóa: Phương pháp da kề da, cho con bú sớm, Bệnh viện đa khoa Hà Đông.

ABSTRACT 

Objectives: Describe the current status of knowledge and practice of skin-to-skin contact and early breastfeeding of pregnant women after vaginal birth at Ha Dong General Hospital in 2024.

Methods: Cross-sectional description, performed on 186 pregnant women after vaginal birth at the Department of Obstetrics and Gynecology, Ha Dong General Hospital. The study was conducted from January to September 2024.

Results: Knowledge of the skin-to-skin method of mothers reached 76.3% (of which 95.2% knew about the method, but only 59.7% knew about the time to do it). However, the rate of skin-to-skin practice reached only 36.6% (with 55.4% of babies having skin-to-skin contact, but only 38.7% in the correct position and 36.6% achieving a continuous time of 30-90 minutes). Knowledge of breastfeeding of mothers about colostrum and the benefits of early breastfeeding reached 81.7% (95.2% knew about colostrum, 72.6% knew the time to breastfeed in the first hour). Practice of early breastfeeding and correct breastfeeding reached 81.2%. The rate of mothers caressing and caressing their babies was very high (93.5%), but the rate of breastfeeding on both breasts was the lowest (67.7%).

Conclusions: Research results show that the rate of knowledge and practice of skin-to-skin contact and early breastfeeding among postpartum mothers is usually at a good level. Hospitals need to continue to improve patient care processes, especially instructions for implementing the skin-to-skin method; Organize prenatal classes for pregnant women, upgrade facilities and supervision, and improve the quality of care for pregnant women and newborns.

Keywords: Skin-to-skin method, early breastfeeding, Ha Dong General Hospital.

1.   ĐẶT VẤN ĐỀ

Chăm sóc sức khỏe sơ sinh hiện đang là một vấn đề thu hút được sự quan tâm của các quốc gia trên toàn thế giới. Trong những năm qua, tỷ lệ tử vong của trẻ em nói chung đã giảm mạnh nhưng tỷ lệ trẻ sơ sinh giảm không đáng kể [1]. Ước tính hàng năm có khoảng 4 triệu trẻ sơ sinh tử vong, chiếm 37% số tử vong trẻ dưới 5 tuổi và hơn 70% số tử vong trẻ dưới 1 tuổi; gần 70% số trẻ tử vong sơ sinh xảy ra trong tuần đầu [9], [8]. Tại Việt Nam, Quỹ nhi đồng Liên hợp quốc (2014) đã chỉ ra rằng chỉ 24,3% trẻ em dưới 6 tháng tuổi được bú mẹ hoàn toàn và 26,5% trẻ sơ sinh được bú mẹ trong vòng một giờ đầu sau sinh [7]. Phương pháp da kề da giữa mẹ và trẻ sơ sinh ngay sau đẻ có tác dụng: tăng tỉ lệ bú mẹ sớm và bú sữa mẹ hoàn toàn, tăng tình cảm mẹ con, phát triển nhận thức, giảm stress, điều chỉnh thân nhiệt giảm nhiễm khuẩn ở trẻ sơ sinh,...[1], [9]. Bệnh viện đa khoa Hà Đông mong muốn chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh theo những phương pháp mới và hiệu quả nhất. Áp dụng phương pháp da kề da và thực hiện cho con bú sớm những ngày đầu sau sinh trong chăm sóc cần có những khảo sát đánh giá kiến thực hành của các sản phụ về áp dụng phương pháp da kề da và thực hiện cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường. Chính vì thế chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da và cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường tại khoa Phụ sản bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2024 với mục tiêu:

  1. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da của sản phụ sau đẻ thường tại bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2024.
  2. Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường tại bệnh viện đa khoa Hà Đông năm 2024.

2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Sản phụ sau đẻ thường tại khoa Phụ sản BVĐK Hà Đông

2.1.1.  Tiêu chuẩn lựa chọn

          - Sản phụ trên 18 tuổi

          - Sản phụ mang thai đủ tháng từ 37 – 41 tuần theo dự kiến sinh

          - Sản phụ tình nguyện tham gia nghiên cứu

2.1.2.  Tiêu chuẩn loại trừ

          - Sản phụ sinh trẻ dị tật như sứt môi, hở hàm ếch, trẻ không có hậu môn

- Sản phụ bị suy giảm nhận thức

- Sản phụ mắc một số bệnh cấp tính.

2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu

Thời gian nghiên cứu từ tháng 01 - 9/2024 tại khoa Phụ sản - Bệnh viện đa khoa Hà Đông.

2.3. Thiết kế nghiên cứu

Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang

2.4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu

2.4.1. Cỡ mẫu tính theo công thức

               n  = 

Trong đó:   n: cỡ mẫu nghiên cứu cần thiết.

                   Z1-α/2=1.96 (với α=0.05).

    P = 0,867 (tỷ lệ trẻ được da kề da tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội tham khảo kết quả nghiên cứu của tác giả Phạm Thúy Quỳnh (2018) [4].

q = (1 – p)

d = 0,05 (sai số tối đa cho phép)

Ước lượng khoảng 5% phiếu thu thập không hợp lệ. Cỡ mẫu cuối cùng của NC là 186 sản phụ.

2.4.2. Cách chọn mẫu

-   Mẫu được chọn tại phòng sau đẻ khoa phụ sản.

Chọn mẫu thuận tiện.

Kiểm soát sai số:

  • Hạn chế sai số chọn mẫu: nghiên cứu sẽ chọn tất cả các sản phụ đáp ứng đủ tiêu chuẩn lựa chọn và loại trừ trong thời gian thu thập số liệu cho đến khi đủ cỡ mẫu yêu cầu (n=186) để đảm bảo tính đại diện tối đa trong nhóm đối tượng tiếp cận được.
  • Hạn chế sai số thông tin:

Nhóm nghiên cứu sử dụng bộ công cụ đã được chuẩn hóa (tham khảo và kiểm định).

Người thu thập số liệu được huấn luyện kỹ về kỹ thuật phỏng vấn và quan sát để đảm bảo tính khách quan và đồng nhất khi thu thập.

2.5. Công cụ và phương pháp thu thập số liệu.

- Bộ công cụ được xây dựng dựa trên mục tiêu nghiên cứu, kinh nghiệm lâm sàng và tham khảo từ các nghiên cứu trước (tác giả Trương Thị Hải (2016) [6], Phạm Thúy Quỳnh (2018) [4]).

- Bộ câu hỏi gồm 3 phần chính với tổng số 31 câu hỏi/tiêu chí như sau:

Phần

Nội dung

Số lượng câu hỏi/tiêu chí

Hình thức trả lời/Quan sát

Cách tính điểm (Đạt/Không Đạt)

Phần 1

Thông tin chung của đối tượng NC

5 câu

Trắc nghiệm/Điền khuyết

Chỉ dùng để mô tả đặc điểm đối tượng

Phần 2

Kiến thức, thực hành PP da kề da

12 câu/tiêu chí

   

2.2.1

Kiến thức PP da kề da

6 câu

(Trắc nghiệm)

Trả lời.

Đúng 5/6 câu trở lên là Đạt

2.2.2

Thực hành PP da kề da

6 tiêu chí (Bảng kiểm quan sát)

Quan sát

Đúng 5/6 tiêu chí là Đạt.

Phần 3

Kiến thức, thực hành bú sớm/bú đúng

14 câu/tiêu chí

   

2.3.1

Kiến thức bú sớm/bú đúng

9 câu

(Trắc nghiệm)

Trả lời.

Đúng 7/9 câu trở lên là Đạt

2.3.2

Thực hành bú sớm/bú đúng

5 tiêu chí (Bảng kiểm quan sát)

Quan sát

Đúng 4/5 tiêu chí là Đạt.

Tổng

 

31 câu

 

 

Kiểm định độ tin cậy và giá trị.

Để đảm bảo độ tin cậy và giá trị của bộ công cụ, nghiên cứu đã tiến hành test thử (pre-test) trên một nhóm đối tượng tương đồng với đối tượng nghiên cứu ( 25 sản phụ) trước khi thu thập số liệu chính thức. Kết quả kiểm định như sau:

  • Độ tin cậy (Hệ số Cronbach's Alpha):

+ Sau khi test thử và loại bỏ các biến không phù hợp, hệ số Cronbach's Alpha cho thang đo Kiến thức về phương pháp da kề da là 0.78.

+ Hệ số Cronbach's Alpha cho thang đo Kiến thức về bú sớm và bú đúng là 0.82.

  • Giá trị:

Bộ công cụ được tham vấn ý kiến chuyên gia (từ 3 lãnh đạo khoa phụ sản và điều dưỡng trưởng khoa) để đánh giá giá trị nội dung. Các chuyên gia đánh giá cao tính phù hợp và rõ ràng của bộ câu hỏi.

2.6.  Xử lý và phân tích số liệu

Số liệu sau khi thu thập được tổng hợp, làm sạch và nhập liệu bằng phần mềm Epidata 3.1 và phân tích số liệu bằng phần mềm SPSS 25.0.

2.6.1. Xử lý dữ liệu thiếu

- Ước lượng ban đầu: Cỡ mẫu tính toán ban đầu ước lượng 5% phiếu thu thập không hợp lệ hoặc bị loại.

- Thực tế thu thập: Trong quá trình thu thập, nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn 186 sản phụ. Thực tế có 9 phiếu (chiếm khoảng 4.8%) được xác định là không hợp lệ do sản phụ trả lời không đầy đủ hoặc có sai sót lớn.

- Xử lý:

+ Phiếu bị loại: 9 phiếu không hợp lệ này đã bị loại bỏ hoàn toàn và được thay thế bằng các phiếu thu thập bổ sung để đảm bảo cỡ mẫu cuối cùng là 186 sản phụ hợp lệ.

+ Dữ liệu thiếu trong phiếu hợp lệ: Sau khi làm sạch, không có dữ liệu thiếu đáng kể trong các biến chính nên không ảnh hưởng đến tính đại diện của mẫu.

2.6.2. Phân tích số liệu

Kiến thức về phương pháp da kề da đạt khi trả lời được 5/6 câu và Thực hành phương pháp da kề da: quan sát việc thực hành phương pháp cho trẻ da kề da trong bảng kiểm quan sát mỗi tiêu chí quan sát, sản phụ thực hành đúng từ 5/6 tiêu chí là đạt. Kiến thức của sản phụ về sữa non và lợi ích khi cho trẻ bú sớm đạt khi trả lời đúng từ 10/13 câu hỏi trở lên, Thực hành của sản phụ về cho trẻ bú sớm và bú đúng đạt khi từ 7/9 tiêu chí trở lên.

3. KẾT QUẢ

3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu

                  

           

 

 

 

 

 

 

Biểu đồ 1: Tuổi của ĐTNC 

Nhận xét: Chủ yếu các sản phụ trong độ tuổi  từ 25 đến 34 tuổi chiếm tỷ lệ 50,5%.

 

 

 

 

 

 

Biểu đồ 2: Trình độ của ĐTNC

Nhận xét: Nhóm sản phụ có trình độ trung học và  cao đẳng chiếm tỷ lệ cao nhất 52,1%.

                 

 

 

 

 

 

 

 

Biểu đồ 3: Nơi sống của ĐTNC

Nhận xét: Nhóm sản phụ có nơi sống ở nông thôn chiếm 57,5%

 

 

 

 

 

 

Biểu đồ 4: số lần sinh của ĐTNC

Nhóm sản phụ có số lần sinh từ 2 lần trở lên chiếm tỷ lệ 54,3%.

3.2. Thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da của sản phụ sau đẻ thường tại BVĐK Hà Đông năm 2024

Bảng 3.1. Kiến thức về phương pháp da kề da

Nội dung

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

SP có biết về phương pháp da kề da

biết

177

95,2

Không biết

09

4,8

Thời điểm áp dụng PP da kề da

Sau khi sinh, trẻ được lau khô và cắt rốn xong

153

82,3

Không biết

33

17,7

Thời gian

thực hiện PP

da kề da

Dưới 30 phút

48

25,8

Từ 30’ đến 90’ phút

111

59,7

Không biết

27

14,5

PP da kề da được áp dụng cho trẻ

Trẻ sinh đủ tháng, khỏe mạnh

146

78,5

Trẻ sinh non không có các dấu hiệu bệnh lý

151

81,2

Trẻ có các dấu hiệu bệnh lý

16

8,6

Không biết

09

4,8

Nhiệt độ phòng thích hợp cho PP  da kề da

dưới 250C

35

18,8

Từ 25 – 30 0C

142

76,4

Trên 300C

09

4,8

Kiến thức đạt

142

76,3

       Nhận xét: Kiến thức đạt của sản phụ về phương pháp da kề da là 76,3%. Hầu hết sản phụ có biết về phương pháp này 95,2%. Tỷ lệ sản phụ biết về thời điểm áp dụng (sau khi sinh, lau khô, cắt rốn xong) và nhiệt độ phòng thích hợp từ 25 - 30C đều ở mức cao (≥ 76,4%). Tuy nhiên, chỉ 59,7% sản phụ biết về thời gian thực hiện tối ưu (30 - 90 phút).

Bảng 3.2. Thực hành phương pháp da kề da của SP tại phòng sau đẻ

Nội dung

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Vị trí nằm của trẻ khi về phòng sau đẻ

Cạnh mẹ

83

44,6

Da kề da

103

55,4

Thời gian trẻ được tiếp xúc da kề da

dưới 30 phút

35

18,8

từ 30 – 90 phút

68

36,6

thế của trẻ tiếp xúc với da mẹ

Trẻ trần, không quấn tã lót nằm trên ngực hoặc bụng của mẹ,  lưng trẻ được phủ bởi lớp chăn

 

80

 

43,0

Trẻ có quấn tã lót

23

12,4

Mặt, ngực, bụng và chân của trẻ áp sát vào người mẹ không có khoảng trống

72

38,7

Đầu trẻ đội mũ nghiêng về một bên, phía trên đắp chăm ấm

80

43,0

Thời gian cho trẻ

da kề da

Liên tục

58

31,2

Ngắt quãng

45

24,2

Người hỗ trợ SP cho trẻ da kề da tại phòng sau đẻ

NVYT

48

25,8

Người nhà sản phụ

43

23,1

Không ai hỗ trợ

12

6,5

Thực hành đạt

68

36,6

Nhận xét: Tỷ lệ sản phụ thực hành đạt phương pháp da kề da tại phòng sau đẻ rất thấp, chỉ 36,6%. Dù 55,4% trẻ được mẹ cho da kề da, nhưng tỷ lệ thực hiện đúng tư thế (trẻ trần, không quấn tã, áp sát mẹ) chỉ đạt 38,7%. Đáng chú ý, 12,4% trẻ được da kề da còn quấn tã lót, và chỉ 36,6% trẻ được tiếp xúc da kề da liên tục từ 30 – 90 phút.

3.3. Thực trạng kiến thức, thực hành về sữa non và cho con bú sớm, bú đúng của sản phụ sau đẻ thường tại BVĐK Hà Đông năm 2024

Bảng 3.3. Kiến thức của sản phụ về sữa non và lợi ích cho cho trẻ bú sớm

Nội dung

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

Sữa có ngay sau sinh gọi là sữa gì

Sữa non

177

95,2

Không biết

09

4,8

Tác dụng của sữa non

Bảo vệ hệ tiêu hóa

141

75,8

Nâng cao sức đề kháng

176

94,6

Phát triển hệ xương khớp

160

86,0

Không biết

10

5,4

Thời điểm cho trẻ bú lần đầu

Trong giờ đầu sau đẻ

135

72,6

Sau 1h sau đẻ

45

24,2

Không biết

06

3,2

Lợi ích cho trẻ bú sớm sau sinh đối với trẻ

Sữa mẹ giàu chất dinh dưỡng để trẻ phát triển

170

91,4

Trẻ có nhiều sữa mẹ hơn để bú

152

81,7

Giữ ấm cho trẻ

159

85,5

Giúp tống phân xu nhanh

176

94,6

Không biết

10

5,4

Lợi ích cho trẻ bú sớm sau sinh đối với mẹ

Giúp tử cung co hồi nhanh

163

87,6

Mẹ cảm thấy yên tâm

138

74,2

Kích thích sữa mẹ tiết sớm hơn và nhiều hơn

172

92,5

Tăng tình cảm mẹ con

160

86,0

Không biết

09

4,8

Kiến thức đạt

152

81,7

Nhận xét: Kiến thức đạt về sữa non và cho con bú sớm ở mức cao 81,7%. Hầu hết sản phụ biết sữa đầu tiên là sữa non 95,2% và các tác dụng quan trọng của nó như tăng đề kháng 94,6%. Tuy nhiên, tỷ lệ biết về thời điểm cho trẻ bú lần đầu trong giờ đầu sau đẻ chỉ đạt 72,6%, thấp hơn so với các nội dung kiến thức khác.

Bảng 3.5. Thực hành cho trẻ bú sớm và bú đúng của sản phụ

Nội dung

Số lượng (n)

Tỷ lệ %

SP cho trẻ

sớm

Trong 1 giờ đầu sau đẻ

131

70,4

Trên 1 giờ đầu sau đẻ

49

26,4

Không biết

06

3,2

SP cho trẻ đúng

Lau sạch vú

151

81,2

Không

35

18,8

Tư thế sản phụ thoải mái

163

87,6

Không

23

12,4

Đầu và thân trẻ trên 1 đường thẳng, áp sát vào người mẹ

150

80,6

Không

36

19,4

Mặt trẻ hướng vào vú mẹ, mũi đối diện núm vú, cằm trẻ chạm vào vú mẹ

165

88,7

Không

21

11,3

Miệng trẻ ngậm hết quầng vú phía dưới

148

79,6

Không

38

20,4

Khi bú, SP đỡ đầu, vai, mông trẻ

170

91,4

Không

16

8,6

Mẹ âu yếm vuốt ve con

174

93,5

Không

12

6,5

Cho trẻ bú đều cả 2 bên vú

126

67,7

Không

60

32,3

Thực hành đạt

151

81,2

Nhận xét: Tỷ lệ sản phụ thực hành đạt cho trẻ bú sớm và bú đúng là 81,2%. 70,4% sản phụ cho trẻ bú trong 1 giờ đầu sau đẻ. Các yếu tố thực hành liên quan đến thái độ (âu yếm, vuốt ve) đạt tỷ lệ rất cao 93,5%, trong khi thực hành cho trẻ bú đều 2 bên vú lại chiếm tỷ lệ thấp nhất 67,7%.

4. BÀN LUẬN

4.1. Thực trạng kiến thức, thực hành phương pháp da kề da của sản phụ sau đẻ thường tại BVĐK Hà Đông năm 2024.

- Kiến thức: Tỷ lệ sản phụ biết về phương pháp da kề da đạt 95,2% là mức cao, cao hơn nghiên cứu của Phạm Việt Cường 82,7% [5] và tương đương 97,0% của Phạm Thuý Quỳnh [4]. Tỷ lệ cao này phản ánh hiệu quả của các chương trình truyền thông, tư vấn tiền sản và ngay sau sinh tại bệnh viện, đồng thời cho thấy sự quan tâm ngày càng tăng của người dân đối với các biện pháp chăm sóc trẻ sơ sinh tiên tiến vì trình độ dân trí của người dân ngày càng được nâng cao, sản phụ ngày càng quan tâm đến kiến thức chăm sóc trẻ sơ sinh trong đó có phương pháp da kề da để nuôi con được tốt hơn.

- Thực hành: Mặc dù kiến thức cao, tỷ lệ sản phụ thực hành phương pháp da kề da đạt chuẩn chỉ 36,6% là rất thấp. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm Thuý Quỳnh 38,9% [4] và Awi D.D. 38,4% [8], nhưng cao hơn Huỳnh Thị Minh Thu 31,5% [2]. Sự khác biệt về tỷ lệ thực hành giữa các nghiên cứu có thể do định nghĩa về "thực hành đạt" không đồng nhất hoặc thời điểm quan sát/đánh giá khác nhau như nghiên cứu của chúng tôi đánh giá thực hành tại phòng sau đẻ, nơi ít sự giám sát hơn. Tại khoa Phụ sản BVĐK Hà Đông nhiều năm nay đã triển khai phương pháp da kề da cho trẻ ngay sau sinh thường và thực hiện cắt dây rốn muộn, việc chuyển giao thực hành phương pháp da kề da cho trẻ từ phòng đẻ sang phòng sau đẻ chưa hiệu quả, mặc dù 100% trẻ được thực hiện phương pháp da kề da ngay sau sinh tại phòng đẻ, thời gian quá ngắn (3 - 10 phút) không đủ để sản phụ làm quen và tiếp tục thực hiện khi về phòng sau đẻ. Chỉ 55,4% sản phụ tiếp tục thực hành, và trong số đó, nhiều trường hợp thực hành chưa đúng kỹ thuật (12,4% trẻ còn quấn tã lót). Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức về phương pháp da kề da là tốt, nhưng thực hành phương pháp da kề da đạt chuẩn là kém, điều này cho thấy sự cần sự hỗ trợ và giám sát của nhân viên y tế tại phòng sau đẻ.  

4.2. Thực trạng kiến thức, thực hành về sữa non và cho con bú sớm, bú đúng của sản phụ sau đẻ thường tại BVĐK Hà Đông năm 2024

- Kiến thức: Tỷ lệ sản phụ đạt kiến thức về sữa non và cho con bú sớm là 81,7%, được coi là mức khá tốt. Phần lớn sản phụ nhận thức được lợi ích và bản chất của sữa non 94,6% biết tác dụng của sữa non và lợi ích cho trẻ bú sớm, kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấp hơn nghiên cứu của Trương Thị Hải là 99,8% [6], và cao hơn nghiên cứu của Phạm Thuý Quỳnh 81,5% [4].Tỷ lệ sản phụ biết thời điểm cho trẻ bú lần đầu trong 1 giờ đầu sau sinh đạt 72,6% thấp hơn của Phạm Thuý Quỳnh 89,9% [4] nhưng tương đương kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Liên là 73,1% [3]. Do vậy cần phải tăng cường các hoạt động tư vấn cho sản phụ trong suốt quá trình mang thai và sau sinh, giúp sản phụ nâng cao trình độ hiểu biết về "khung giờ vàng" này để thực hành cho con bú sớm góp phần nâng cao sức khỏe cho trẻ sơ sinh và bà mẹ.

- Thực hành: Tỷ lệ sản phụ đạt thực hành bú sớm và bú đúng là 81,2%, là mức tốt, tương đương với kiến thức, có 70,4% sản phụ cho trẻ bú trong 1 giờ đầu sau đẻ cao hơn đáng kể so với nghiên cứu của Phạm Thuý Quỳnh 37,7% [4].

Tỷ lệ cho trẻ bú sớm đạt 70,4%, thấp hơn tỷ lệ kiến thức biết lợi ích đạt 94,6%. Đây là khoảng cách giữa "biết" và "làm" nên một số sản phụ vẫn không thực hiện cho con bú sớm với lý do còn mệt mỏi khi vừa mới sinh, do tập tục cũ của địa phương... nên chưa cho trẻ bú sớm mà sử dụng sữa công thức để cho trẻ bú, tuy nhiên do nghiên cứu không thu thập dữ liệu định lượng về các biến này, đây chỉ là giả thuyết cần được kiểm chứng trong các nghiên cứu định tính hoặc can thiệp tiếp theo.

Tỷ lệ sản phụ cho trẻ bú đều 2 bên vú đạt 67,7%, kết quả nghiên cứu của chúng tôi cao hơn nghiên cứu của tác giả Huỳnh Thị Minh Thu 63,0% [2]. từ kết quả nghiên cứu cho thấy hộ sinh cần hướng dẫn sản phụ cách cho trẻ bú đúng, bú đều hai bên vú, để kích thích, giúp duy trì sản xuất sữa đều đẳng cấp và tránh tình trạng tắc tia sữa.

4.3 Hạn chế của nghiên cứu.

- Nghiên cứu có thiết kế cắt ngang nên chỉ mô tả thực trạng tại một thời điểm, không thể thiết lập được mối quan hệ nhân quả giữa kiến thức và thực hành, cũng như không thể đánh giá sự thay đổi theo thời gian.

- Tiêu chí đánh giá "thực hành đạt" không được so sánh tính tương đồng với các nghiên cứu tham chiếu. Điều này có thể ảnh hưởng đến tính chính xác khi so sánh tỷ lệ giữa các nghiên cứu trong và ngoài nước.

- Nghiên cứu chỉ sử dụng phương pháp định lượng. Các lý do chủ quan hoặc khách quan (như mệt mỏi, tập tục, cơ sở vật chất...) được đề cập trong phần bàn luận để lý giải cho sự khác biệt giữa kiến thức và thực hành chưa có dữ liệu khảo sát trực tiếp từ sản phụ để chứng minh.

- Nghiên cứu chỉ được thực hiện tại khoa Phụ sản BVĐK Hà Đông trong một khoảng thời gian giới hạn, do đó tính khái quát hóa kết quả cho toàn bộ sản phụ sau sinh đẻ thường tại các cơ sở y tế khác có thể bị hạn chế.

5. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

          Tỷ lệ sản phụ có kiến thức đạt về phương pháp da kề da là 76,3%; Sản phụ thực hành đạt phương pháp da kề da tại phòng sau đẻ là 36,6%. Kiến thức của sản phụ đạt về sữa non và lợi ích cho cho trẻ bú sớm là 81,7%. Thực hành của sản phụ đạt cho trẻ bú sớm và bú đúng là 81,2%.

Từ kết quả nghiên cứu, bệnh viện cần tổ chức đào tạo phương pháp da kề da cho nhân viên y tế, đặc biệt là hộ sinh. Tăng cường truyền thông, tư vấn sức khỏe cho bà mẹ mang thai và tổ chức lớp tiền sản về nuôi con bằng sữa mẹ, lợi ích da tuần, và bú sớm. Khoa Phụ sản lập tổ chăm sóc sơ sinh, nâng cấp cơ sở vật chất, duy trì giám sát thực hiện. Qua đó, cải thiện chất lượng chăm sóc sản phụ và trẻ sơ sinh, đảm bảo phát triển sức khoẻ của trẻ, nâng cao chất lượng tại bệnh viện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.  Bộ Y tế (2016), Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai đoạn 2016 – 2020, Ban hành kèm theo Quyết định 4177/QĐ-BYT, ngày 03/8/2016.

2.  Huỳnh Thị Minh Thu (2022 ), Thực trạng việc thực hiện đa kề da và cho trẻ bú sớm trên sản phụ đẻ thường của hộ sinh tại khoa phụ sản bệnh viện đa khoa Nông nghiệp.

3.  Nguyễn Thị Liên (2020), Kiến thức và thực hành cho trẻ bú sớm sau sinh và bú mẹ hoàn toàn của bà mẹ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội.

4.  Phạm Thuý Quỳnh (2021 ), Nghiên cứu thực trạng kiến thức, thực hành da kề da và cho con bú sớm của sản phụ sau đẻ thường tại bệnh viện phụ sản Hà Nội năm 2020-2021.

5.  Phạm Việt Cường và cộng sự (2018 ), Khảo sát kiến thức về phương pháp Kangaroo của các bà mẹ có con đẻ non điều trị tại khoa sơ sinh bệnh viện Sản Nhi Quảng Ninh năm 2018.

6.  Trương Thị Hải (2016), Tìm hiểu kiến thức, thực hành về phương pháp ủ ấm da kề da và cho con bú sớm của các sản phụ tại bệnh viện Bạch Mai. Luận văn cử nhân điều dưỡng, Trường Đại học Y Hà Nội.

7.  UNICEF (2014 ), Điều tra Đánh giá các Mục tiêu về Trẻ em và Phụ nữ (MICS) năm 2013-2014, Nhà xuất bản Tổng cục thống kê, Hà Nội.

8.  Awi D.D. và Alikor E. a. D. (2004 ), The influence of pre- and post-partum factors on the time of contact between mother and her new-born after vaginal delivery. Niger J Med J Natl Assoc Resid Dr Niger, (13), 272–275.

9. Charpak N., Ruiz J.G., Zupan J. et al, (2005 ), Kangaroo Mother Care: 25 years after. Acta Paediatr Oslo Nor 1992, (94), 514–522.

 


Tin mới