Kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang

NCKH: Kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Đa khoa Tiền Giang

Tóm tắt

Mục tiêu: Mô tả kiến thức và thực hành của bà mẹ trong chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) tại khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang.

Phương pháp: Thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích, thực hiện từ tháng 3 đến tháng 8 năm 2024 với cỡ mẫu 327 bà mẹ. Dữ liệu được thu thập bằng bảng hỏi cấu trúc và xử lý bằng phần mềm Stata 14.0.

Kết quả: 57,49% bà mẹ dưới 30 tuổi. Có 69,42% từng nghe về NKHHCT nhưng chỉ 49,24% biết rõ nguyên nhân. Gần 55% nhận biết dấu hiệu bệnh, và chỉ khoảng 50% nhận biết đúng các dấu hiệu nguy hiểm như ngủ li bì, bỏ bú, co giật. Hành vi phòng bệnh đúng như giữ ấm, bú mẹ, tiêm chủng vẫn còn hạn chế. Có 73,39% bà mẹ nhận định NKHHCT là bệnh nguy hiểm, nhưng gần 50% không biết bệnh có thể lây lan.

Kết luận: Cần tăng cường truyền thông và giáo dục sức khỏe nhằm cải thiện kiến thức và thực hành chăm sóc trẻ mắc NKHHCT cho bà mẹ tại cộng đồng.

Abstract

Objective: To describe mothers’ knowledge and practices in caring  for children under 5 years old with acute respiratory infections (ARIs) at the Pediatrics Department, Tien Giang General Hospital.

Methods: A cross-sectional analytical study was conducted from March to August 2024 on 327 mothers. Data were collected using structured questionnaires and analyzed using Stata 14.0.

Results: 57.49% of mothers were under 30 years old. Although 69.42% had heard of ARIs, only 49.24% knew the actual causes. Nearly 55% recognized symptoms, and only around 50% correctly identified danger signs such as lethargy, refusal to feed, and convulsions. Preventive practices like keeping children warm, breastfeeding, and full immunization remained limited. 73.39% of mothers perceived ARIs as dangerous, but almost 50% did not know the disease is contagious.

Conclusion: Health communication and education should be enhanced to improve maternal knowledge and practices in caring for children with ARIs in the community.

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) là một trong những nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tật và tử vong ở trẻ em dưới 5 tuổi trên toàn thế giới, đặc biệt tại các quốc gia đang phát triển, nơi điều kiện chăm sóc y tế còn hạn chế [9]. Theo Tổ chức Y tế Thế giới mỗi năm có khoảng 1,4 triệu trẻ tử vong do viêm phổi và tiêu chảy, trong đó NKHHCT chiếm tỷ lệ đáng kể và được coi là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu ở trẻ nhỏ [8].

Tại Việt Nam, mặc dù Bộ Y tế đã triển khai nhiều chương trình can thiệp như “Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai đoạn 2016 – 2020” [2] và “Kế hoạch hoạt động quốc gia vì sự sống còn trẻ em giai đoạn 2009 – 2015” [1], nhưng NKHHCT vẫn là gánh nặng lớn đối với hệ thống y tế. Tỷ lệ mắc bệnh hàng năm vẫn ở mức cao, đặc biệt ở khu vực nông thôn và miền núi, nơi điều kiện kinh tế – xã hội và tiếp cận dịch vụ y tế còn hạn chế [4],[6].

Một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến hiệu quả phòng ngừa và điều trị NKHHCT là kiến thức và thực hành chăm sóc trẻ của bà mẹ. Nhiều nghiên cứu trong nước cho thấy nhận thức của bà mẹ về nguyên nhân, dấu hiệu nguy hiểm và các biện pháp chăm sóc NKHHCT còn hạn chế. Ví dụ, nghiên cứu của Đào Minh Tuấn (2010) tại Bệnh viện Nhi Trung ương cho thấy nhiều bà mẹ chưa nhận biết được các triệu chứng cảnh báo sớm [6]; nghiên cứu của Lý Thị Chi Mai và Huỳnh Thanh Liêm (2012) tại Trà Vinh cũng ghi nhận tỷ lệ thực hành đúng các biện pháp phòng bệnh chưa cao [4].

Tại Tiền Giang, số liệu nghiên cứu về kiến thức và thực hành chăm sóc trẻ mắc NKHHCT của bà mẹ còn rất hạn chế. Trong bối cảnh bệnh vẫn là nguyên nhân gây nhập viện hàng đầu ở trẻ dưới 5 tuổi tại các cơ sở y tế trong tỉnh, việc đánh giá thực trạng này là cần thiết để xây dựng các chiến lược can thiệp phù hợp.

Mục tiêu nghiên cứu

Khảo sát kiến thức và thực hành của bà mẹ trong chăm sóc trẻ dưới 5 tuổi mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (NKHHCT) tại khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang.

2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu: Là các bà mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện và được chẩn đoán NKHHCT tại khoa Nhi, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang trong thời gian từ tháng 03/2024 đến tháng 08/2024.

2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang có phân tích.

2.3. Cỡ mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên theo công thức

Trong đó:

n: Cỡ mẫu nghiên cứu tối thiểu.

p = 0,74 là tỷ lệ bà mẹ nhận biết được biểu hiện của trẻ mắc NKHHCT, tham khảo trước đó theo nghiên cứu của Nguyễn Hồng Gấm tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ (2017) [3].

Z = 1,96 là hệ số tin cậy với độ tin cậy ở mức 95% (a = 0,05)

d = 0,05 là sai số tuyệt đối.

Thay tất cả giá trị vào công thức, tôi tính được mẫu cần thiết là 296, tỷ lệ mất mẫu 5% do khả năng bà mẹ từ chối tham gia, thì cỡ mẫu là 315 bà mẹ. Trên thực tế khảo sát 327 bà mẹ.

2.4. Phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn từ danh sách các bà mẹ có con dưới 5 tuổi đang điều trị tại khoa Nhi được chẩn đoán NKHHCT trong thời gian nghiên cứu.

2.5. Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu bằng bộ câu hỏi đã được soạn sẵn. Trước khi tiến hành khảo sát, các cộng tác viên sẽ được tập huấn kỹ, nhằm tránh sai sót trong quá trình phỏng vấn. Phỏng vấn trực tiếp đối tượng, cộng tác viên ghi chép trong quá trình phỏng vấn.

Kiểm soát sai số: Tập huấn cộng tác viên trước khi thu thập số liệu, thử nghiệm bộ công cụ khảo sát trên một nhóm nhỏ, kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của từng phiếu phỏng vấn

2.6. Các chỉ tiêu chính trong nghiên cứu:

- Đặc điểm nhân khẩu học.

- Kiến thức và thực hành của bà mẹ về chăm sóc trẻ bệnh NKHHCT.

2.7. Phương pháp phân tích số liệu: Số liệu được mã hóa và nhập liệu bằng phần mềm EpiData 3.1, phân tích thống kê bằng phần mềm Stata 14.0 và Microsoft Excel. Sử dụng các chỉ số thống kê mô tả và phân tích mối liên quan bằng phép kiểm chi bình phương với mức ý nghĩa p < 0,05.

2.8. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu:

Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng khoa học kỹ thuật của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Tiền Giang với Quyết định số 220/QĐ-BVĐKTG ngày 24/4/2024. Nghiên cứu được sự đồng ý của Ban Lãnh đạo các khoa, phòng và các bà mẹ tham gia nghiên cứu tại bệnh viện. Khách quan, trung thực trong đánh giá và xử lý số liệu.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Bảng 1. Phân bố độ tuổi của bà mẹ tham gia nghiên cứu (n = 327)

Nhóm tuổi

Số lượng (n)

Tỷ lệ (%)

Dưới 30 tuổi

188

57,49

Từ 30 tuổi trở lên

139

42,51

Tổng cộng

327

100

Trong tổng số 327 bà mẹ tham gia nghiên cứu, có 188 người dưới 30 tuổi (57,49%) và 139 người từ 30 tuổi trở lên (42,51%).

Bảng 2. Nhận biết về nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của NKHHCT

Nội dung

Số người đồng ý (n)

Tỷ lệ (%)

Từng nghe về NKHHCT

227

69,42

Biết rõ nguyên nhân gây bệnh

161

49,24

Nhận biết thời tiết lạnh là yếu tố nguy cơ

184

56,27

Khói thuốc lá

150

45,87

Suy dinh dưỡng

94

28,75

Không được bú sữa mẹ

89

27,22

69,42% bà mẹ từng nghe về bệnh NKHHCT ở trẻ, nhưng chỉ có 49,24% biết rõ nguyên nhân gây bệnh. Các yếu tố nguy cơ được bà mẹ nhận biết nhiều nhất là thời tiết lạnh (56,27%), khói thuốc lá (45,87%), suy dinh dưỡng (28,75%) và không được bú sữa mẹ (27,22%).

Bảng 3. Nhận biết dấu hiệu nguy hiểm khi trẻ mắc NKHHCT

Dấu hiệu nguy hiểm

Số người nhận biết (n)

Tỷ lệ (%)

Ngủ li bì, khó đánh thức

161

49,24

Co giật

152

46,48

Không uống được hoặc bỏ bú

140

42,81

Biết cần đưa trẻ có dấu hiệu nguy hiểm đến viện

204

62,39

Khoảng 54,74% bà mẹ nhận biết được biểu hiện khi trẻ mắc NKHHCT. Các dấu hiệu nguy hiểm được ghi nhận gồm: ngủ li bì khó đánh thức (49,24%), co giật (46,48%), không uống được hoặc bỏ bú (42,81%). Có đến 62,39% bà mẹ biết rằng trẻ có dấu hiệu nguy hiểm như co giật hoặc ngủ li bì cần được đưa đến bệnh viện.

Bảng 4. Biện pháp phòng ngừa NKHHCT được bà mẹ áp dụng

Biện pháp phòng ngừa

Số người áp dụng (n)

Tỷ lệ (%)

Giữ ấm cho trẻ

222

67,89

Tránh khói bụi, thuốc lá

171

52,29

Tiêm chủng đầy đủ

176

53,82

Cho trẻ bú mẹ đầy đủ

127

38,84

57,19% bà mẹ biết cách phòng ngừa NKHHCT cho trẻ. Trong đó, các biện pháp được thực hành phổ biến nhất gồm: giữ ấm cơ thể trẻ (67,89%), tránh khói bụi và thuốc lá (52,29%), tiêm chủng đầy đủ (53,82%) và cho trẻ bú mẹ (38,84%).

Bảng 5. Nhận thức về tính chất lây lan và mức độ nguy hiểm của NKHHCT

Nhận thức

Số người (n)

Tỷ lệ (%)

Cho rằng NKHHCT ở trẻ là bệnh nguy hiểm

240

73,39

Biết bệnh có thể lây lan

163

49,85

Không biết bệnh có thể lây lan

105

32,11

73,39% bà mẹ cho rằng bệnh NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi là nguy hiểm. Tuy nhiên, chỉ có 49,85% nhận biết đúng rằng bệnh có thể lây lan; 32,11% còn lại không biết điều này.

4. BÀN LUẬN:

Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bà mẹ có kiến thức đúng về nguyên nhân gây NKHHCT ở trẻ dưới 5 tuổi tại Tiền Giang còn ở mức hạn chế, tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Hồng Gấm (2017) tại Cần Thơ, khi chỉ có khoảng 74% bà mẹ trả lời đúng [3]. Nhận thức về các nguyên nhân thường gặp như vi khuẩn, virus, môi trường ô nhiễm chưa đồng đều; nhiều bà mẹ vẫn cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do “trời lạnh” hoặc “ăn uống không đủ chất” – những yếu tố không trực tiếp gây bệnh. Điều này phản ánh sự cần thiết phải cung cấp thông tin chính xác hơn về căn nguyên bệnh.

Về nhận biết dấu hiệu nguy hiểm, tỷ lệ bà mẹ phát hiện đúng các biểu hiện như khó thở, co giật, bỏ bú thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Nguyễn Minh Tuấn và cộng sự (2016) tại Thái Nguyên [6]. Đây là yếu tố quan trọng quyết định thời điểm đưa trẻ đến cơ sở y tế, vì nếu phát hiện chậm, nguy cơ tử vong sẽ tăng cao. Nguyên nhân có thể liên quan đến sự khác biệt về điều kiện kinh tế – xã hội, trình độ học vấn và khả năng tiếp cận các chương trình truyền thông y tế giữa các địa phương.

Về thực hành chăm sóc, mặc dù một số hành vi phòng bệnh như tiêm chủng đầy đủ, cho trẻ bú mẹ hoàn toàn trong 6 tháng đầu, giữ ấm khi trời lạnh được thực hiện tương đối phổ biến, song tỷ lệ tránh khói thuốc lá, cải thiện môi trường sống và đưa trẻ đi khám sớm khi có triệu chứng vẫn còn thấp. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Lý Thị Chi Mai và Huỳnh Thanh Liêm (2012) tại Trà Vinh [4], cho thấy vẫn còn rào cản trong thay đổi hành vi phòng bệnh. UNICEF Việt Nam (2016) cũng nhấn mạnh rằng ngoài nguyên nhân do thiếu kiến thức, các yếu tố kinh tế, tập quán sinh hoạt và thói quen chăm sóc truyền thống có ảnh hưởng đáng kể đến hành vi của bà mẹ [7].

So với các khuyến cáo của WHO [8], [9] tỷ lệ áp dụng đầy đủ các biện pháp phòng bệnh trong nghiên cứu này còn thấp. WHO khuyến nghị các biện pháp phòng ngừa bao gồm tiêm chủng vắc-xin phòng bệnh, đảm bảo dinh dưỡng hợp lý, giảm tiếp xúc với khói thuốc và ô nhiễm không khí trong nhà, cũng như cải thiện điều kiện vệ sinh môi trường. Thực tế cho thấy tại Tiền Giang, việc triển khai đồng bộ các biện pháp này còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt ở khu vực nông thôn, nơi người dân ít tiếp cận với các dịch vụ y tế dự phòng và thông tin sức khỏe.

Từ các kết quả trên, có thể thấy rằng các chương trình can thiệp nhằm nâng cao kiến thức và thay đổi hành vi chăm sóc cần được triển khai mạnh mẽ hơn tại tuyến y tế cơ sở. Đồng thời, cần có tài liệu truyền thông dễ hiểu, sát với hoàn cảnh thực tế, cũng như phối hợp với các đơn vị y tế địa phương để đào tạo và hỗ trợ các bà mẹ trong chăm sóc trẻ.

Kết quả nghiên cứu cũng có một số hạn chế: được thực hiện tại một bệnh viện tuyến tỉnh, có thể chưa phản ánh toàn diện kiến thức và thực hành tại cộng đồng; phương pháp phỏng vấn trực tiếp có thể gây thiên lệch do xã hội mong muốn.

Tuy vậy, nghiên cứu đã cung cấp cái nhìn khách quan và có giá trị thực tiễn cao, làm cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo cũng như các can thiệp về truyền thông – giáo dục sức khỏe.

5. KẾT LUẬN

Nghiên cứu cho thấy kiến thức và thực hành của bà mẹ về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi còn hạn chế, đặc biệt trong việc nhận biết dấu hiệu nguy hiểm và áp dụng biện pháp phòng ngừa. Việc tăng cường giáo dục sức khỏe tại bệnh viện và cộng đồng là cần thiết để nâng cao phát hiện sớm và chăm sóc kịp thời. Các can thiệp nên tập trung vào truyền thông đơn giản, phù hợp bối cảnh, kết hợp với sự hướng dẫn tích cực từ nhân viên y tế và mở rộng tiếp cận qua nhiều kênh truyền thông.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Y tế. Kế hoạch hoạt động quốc gia vì sự sống còn trẻ em giai đoạn 2009–2015. Hà Nội; 2009.
  2. Bộ Y tế. Kế hoạch hành động quốc gia về chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ sơ sinh và trẻ em giai đoạn 2016–2020. Hà Nội; 2016.
  3. Nguyễn Hồng Gấm. Khảo sát kiến thức, thực hành của bà mẹ về chăm sóc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính ở trẻ dưới 5 tuổi tại khoa Khám, Bệnh viện Nhi đồng Thành phố Cần Thơ năm 2017. Tiểu luận tốt nghiệp Đại học Điều dưỡng Đa khoa. Trường Đại học Tây Đô; 2017.
  4. Lý Thị Chi Mai, Huỳnh Thanh Liêm. Nghiên cứu tình hình mắc bệnh nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính và một số yếu tố liên quan ở trẻ em dưới 5 tuổi tại huyện Châu Thành tỉnh Trà Vinh. Trung tâm Y tế dự phòng Trà Vinh; 2012.
  5. Nguyễn Minh Tuấn, Chu Thị Thùy Linh, Hoàng Thị Ngọc Bích, Nguyễn Thị Nguyệt Minh. Kiến thức, thái độ và thực hành về nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính của bà mẹ có con dưới 5 tuổi nhập viện tại Khoa Nhi Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên. Y học Việt Nam. 2016 Dec;449:34–41.
  6. Đào Minh Tuấn. Nghiên cứu thực trạng khám và điều trị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tại khoa Hô hấp Bệnh viện Nhi Trung ương năm 2010. Tạp chí Y học thực hành. 2024 Apr 26.
  7. UNICEF Việt Nam. Viêm phổi và tiêu chảy gây tử vong cho 1,4 triệu trẻ em mỗi năm, nhiều hơn tổng số các bệnh ở trẻ em gộp lại – theo UNICEF. 2016 Nov 11. Available from: https://www.unicef.org/vietnam/vi/media_25930.html
  1. World Health Organization. Reducing child deaths from pneumonia. Geneva: WHO; 2011. Available from: https://www.who.int/news/item/06-01-2011-reducing-child-deaths-from-pneumonia
  2. World Health Organization. Pneumonia. Geneva: WHO; 2022. Available from: http://www.who.int/mediacentre/factsheets/fs331/en/

 

 


Tin mới