Kiến thức, thái độ về dự phòng và xử trí phản vệ của điều dưỡng, kỹ thuật viên tại các khoa Lâm sàng, Cận lâm sàng Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024

Nghiên cứu: Kiến thức, thái độ về dự phòng và xử trí phản vệ của điều dưỡng, kỹ thuật viên tại các khoa Lâm sàng, Cận lâm sàng Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Phản vệ là một phản ứng dị ứng, có thể xuất hiện ngay lập tức từ vài giây, vài phút đến vài giờ sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên gây ra các bệnh cảnh lâm sàng khác nhau, có thể nghiêm trọng dẫn đến tử vong nhanh chóng và là tình huống thường gp tại cơ sở y tế, vì vy kiến thc thái độ vdphòng và xtrí phn vca điều dưỡng và kỹ thuật viên là rt quan trng trong việc đảm bo an toàn và nâng cao chất lượng chăm sóc cho người bnh.

Mục tiêu nghiên cứu: Đánh giá kiến thc, thái độ về phn vcủa điều dưỡng và kỹ thuật viên tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh viện Nguyễn Trãi.

Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: nghiên cu ct ngang mô t, thc hin trên 274 điều dưỡng và kỹ thuật viên của Bệnh viện Nguyễn Trãi thời gian từ tháng 01/2024 đến tháng 10/2024

. Kết quả: 81,4% điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thc tt về dự phòng và xử trí phn v; 93,4% có thái độ tích cực về dự phòng và xử trí phản vệ.

Kết luận: Điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức tốt và thái độ tích cực về dự phòng và xử trí phản vệ.

Mục tiêu: Đánh giá kiến thức và thái độ về dự phòng, xử trí phản vệ của điều dưỡng và kỹ thuật viên tại Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024.
Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 274 điều dưỡng và kỹ thuật viên từ tháng 01 đến tháng 10/2024, sử dụng bộ câu hỏi dựa trên Thông tư 51/2017/TT-BYT.
Kết quả: Điểm kiến thức trung bình 24,4 ± 2,7/29; 81,4% đạt mức kiến thức tốt. Điểm thái độ trung bình 17,1 ± 1,8/18; 93,4% có thái độ tích cực. Một số hạn chế được ghi nhận ở kiến thức về nguyên tắc dự phòng và kỹ năng xử trí bằng adrenalin.
Kết luận: Điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức tốt và thái độ tích cực về phản vệ. Tuy nhiên cần tăng cường đào tạo định kỳ và tạo môi trường chia sẻ kinh nghiệm để củng cố và cập nhật kiến thức, nâng cao sự tự tin trong dự phòng và xử trí phản vệ.

Từ khóa: Kiến thức, thái độ, phản vệ, điều dưỡng, kỹ thuật viên, Bệnh viện Nguyễn Trãi.

 

ABSTRACT

Background: Anaphylaxis is an allergic reaction, that can appear immediately from a few seconds, minutes to hours after the body is exposed to the allergen, causing various clinical scenarios, which can be severe and lead to a quick death and is a common emergency in healthcare settings. Therefore, the knowledge, attitudes regarding the prevention and management of anaphylaxis among nurses and technicians are crucial for ensuring patient safety and improving the quality of care.

Objectives: To assess the knowledge, attitudes, in managing anaphylaxis among nurses and technicians in the clinical and paraclinical departments of Nguyen Trai Hospital.

Subjects and Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted on 274 nurses and technicians at Nguyen Trai Hospital from January 2024 to October 2024.

Results: 81.4% of nurses and technicians demonstrated good knowledge of anaphylaxis prevention and management; 93.4% exhibited a positive attitude towards anaphylaxis prevention and management.

Conclusion: While nurses and technicians possess good knowledge and positive attitudes toward anaphylaxis prevention and management.

 

Objective: To assess the knowledge and attitudes toward the prevention and management of anaphylaxis among nurses and technicians at Nguyen Trai Hospital in 2024.

Methods: A descriptive cross-sectional study was conducted on 274 nurses and technicians between January and October 2024 using a questionnaire based on the Ministry of Health’s Circular 51/2017/TT-BYT.
Results: The mean knowledge score was 24.4 ± 2.7 out of 29; 81.4% demonstrated good knowledge. The mean attitude score was 17.1 ± 1.8 out of 18; 93.4% expressed positive attitudes. Knowledge gaps were noted regarding prevention principles and specific skills in adrenaline administration.
Conclusion: Nurses and technicians at Nguyen Trai Hospital showed good knowledge and positive attitudes toward anaphylaxis. Continuous training and peer knowledge-sharing are recommended to strengthen confidence and practical capacity in prevention and management.

 

Keywords: Knowledge, attitudes, anaphylaxis, nurses, technicians, Nguyen Trai Hospital.

 

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Phản vệ là một phản ứng dị ứng, có thể xuất hiện ngay lập tức từ vài giây, vài phút đến vài giờ sau khi cơ thể tiếp xúc với dị nguyên gây ra các bệnh cảnh lâm sàng khác nhau, có thể nghiêm trọng dẫn đến tử vong nhanh chóng, trong đó thuốc là nguyên nhân hay gặp nhất. Phản vệ không những chỉ gặp ở trẻ nhỏ mà còn gặp ở người lớn nếu không được chẩn đoán sớm và điều trị kịp thời [1]. Các nghiên cứu dịch tễ học đã báo cáo tỷ suất mắc phản vệ từ 8 đến 50 trên 100.000 người/năm, với tỷ lệ mắc bệnh là 0,05% đến 2,0% [7]. Phản vệ làm tăng thời gian nằm viện, gây nên các gánh nặng về bệnh tật và kinh tế cho người bệnh, đặc biệt là tử vong nếu không được phát hiện và xử trí kịp thời. Để giảm tỷ lệ tử vong và các tai biến cho người bệnh phản vệ, nhân viên y tế cần có kiến thức phòng, xử trí phản vệ đúng, thái độ tích cực và thực hành xử trí đúng nhằm cấp cứu một cách khẩn trương, nhanh chóng và tiến hành ngay tại chỗ. Do đó, chúng tôi tiến hành nghiên cứu “Thực trạng kiến thức, thái độ về dự phòng và xử trí phản vệ của điều dưỡng, kỹ thuật viên tại các khoa lâm sàng, cận lâm sàng Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024”.

Phản vệ là một phản ứng dị ứng nghiêm trọng, khởi phát nhanh sau khi tiếp xúc với dị nguyên và có thể gây tử vong nếu không được chẩn đoán và xử trí kịp thời [1]. Tỷ suất mắc phản vệ dao động từ 8–50 trường hợp/100.000 dân/năm, với tỷ lệ hiện mắc khoảng 0,05–2,0% [7]. Tại cơ sở y tế, thuốc được xem là nguyên nhân thường gặp nhất [1]. Phản vệ không chỉ làm gia tăng tỷ lệ tử vong mà còn kéo dài thời gian nằm viện, gây gánh nặng bệnh tật và chi phí điều trị. Việc sử dụng adrenalin đúng liều và đúng đường ngay từ giai đoạn đầu đã được chứng minh có vai trò quyết định trong cứu sống người bệnh [6].

Để bảo đảm an toàn cho người bệnh, nhân viên y tế, đặc biệt là điều dưỡng và kỹ thuật viên, cần có kiến thức đầy đủ, thái độ tích cực và kỹ năng dự phòng – xử trí phản vệ đúng quy định [2],[3]. Một số nghiên cứu tại Việt Nam và quốc tế cho thấy kiến thức và thái độ về phản vệ của điều dưỡng còn chưa đồng đều, trong đó vẫn tồn tại những khoảng trống về nguyên tắc dự phòng và thực hành xử trí cấp cứu [2],[4],[5].

Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu này được thực hiện nhằm: đánh giá kiến thức và thái độ về dự phòng, xử trí phản vệ của điều dưỡng và kỹ thuật viên tại các khoa lâm sàng, cận lâm sàng Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024, qua đó cung cấp bằng chứng cho các hoạt động đào tạo và cải tiến chất lượng chăm sóc.

 

II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Điều dưỡng và kỹ thuật viên tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng của Bệnh viện Nguyễn Trãi có liên quan trực tiếp tới chăm sóc người bệnh.

2.2. Phương pháp

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang

Cỡ mẫu và chọn mẫu

Lấy mẫu toàn bộ điều dưỡng và kỹ thuật viên có chứng chỉ hành nghề, tại các khoa lâm sàng và cận lâm sàng của Bệnh viện Nguyễn Trãi liên quan trực tiếp tới chăm sóc người bệnh và đồng ý tham gia nghiên cứu. Cỡ mẫu thu được 274 đối tượng

Công cụ thu thập số liệu

Bộ công cụ được nhà nghiên cứu xây dựng dựa trên Thông tư 51/2017/TT-BYT về phòng và xử trí phản vệ của Bộ Y tế gồm 3 phần

  • Phần 1: Thông tin cá nhân: Giới tính, tuổi, thời gian làm việc, vị trí làm việc.
  • Phần 2: Lĩnh vực kiến thức phản vệ, tổng số 29 câu hỏi. Kiến thức của điều dưỡng và kỹ thuật viên được phân loại theo số câu trả lời đúng: Kiến thức tốt (≥ 23 câu); Kiến thức trung bình (16-22 câu); Kiến thức kém (≤ 15 câu).
  • Phần 3: Lĩnh vực thái độ bao gồm 18 câu hỏi. Thái độ của điều dưỡng và kỹ thuật viên được phân loại theo số câu trả lời tích cực: Thái độ tích cực (≥14 câu); Thái độ chưa tích cực (<14 câu).

Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/2024 đến tháng 10/2024

III. KẾT QUẢ

3.1. Đặc điểm  đối tượng nghiên cứu

Bảng 3. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu (n=274)

Đặc điểm

Tần số

Tỷ lệ (%)

Tuổi

TB±ĐLC (tuổi)

(Min-Max)

33,9±8,3

(22-60)

Giới

Nam

61

22,3

Nữ

213

77,7

Trình độ học vấn

Trung cấp

14

5,1

Cao đẳng

112

40,9

Đại học

146

53,3

Sau đại học

2

0,7

Năm kinh nghiệm

<5 năm

90

32,9

5-9 năm

56

20,4

10-19 năm

103

37,6

≥ 20 năm

25

9,1

 Nơi công tác

Khối cấp cứu

104

37,9

Khối nội

97

35,5

Khối ngoại

53

19,3

Khối cận lâm sàng

20

7,3

Nhân viên y tế tham gia nghiên cứu có tuổi trung bình là 33,9 tuổi, nhỏ nhất là 22 tuổi và lớn nhất là 60 tuổi. Nữ nhiều gấp 3,5 lần nam. 94,2% có trình độ học vấn là cao đẳng và đại học. Khoảng 47% có kinh nghiệm trên 10 năm.

    1.  Kiến thức về dự phòng, xử trí phản vệ của đối tương nghiên cứu

Bảng 4. Kiến thức cơ bản về phản vệ (n=274)

Kiến thức cơ bản phản vệ đúng

Tần số

Tỷ lệ (%)

Các triệu chứng báo hiệu phản vệ thường xảy ra trong thời gian bao lâu sau khi tiếp xúc với dị nguyên

271

98,9

Biểu hiện phản vệ ở mức nhẹ (độ I)

270

98,5

Triệu chứng phổ biến của phản vệ

269

98,2

Biểu hiện phản vệ ở mức độ IV

259

94,5

Phản vệ được phân bao nhiêu cấp độ

247

90,2

Biểu hiện phản vệ ở mức nguy kịch (độ III)

239

87,2

Biểu hiện phản vệ ở mức độ 2

236

86,1

Khái niệm về phản vệ

224

81,7

Đặc điểm của phản vệ trên lâm sàng

222

81

Loại phản ứng quá mẫn nào hay gặp trong sốc phản vệ

212

77,4

Tỷ lệ điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức cơ bản đúng về phản vệ dao động từ 77,4% đến 98,9%. “Loại phản ứng quá mẫn nào hay gặp trong sốc phản vệ” có tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất là 77,4%.

Bảng 5. Kiến thức về dự phòng phản vệ (n=274)

Kiến thức đúng về dự phòng phản vệ

Tần số

Tỷ lệ (%)

Cách đề phòng và chống phản vệ tại cơ sở y tế

269

98,2

Chuẩn bị, dự phòng cấp cứu phản vệ

270

98,5

Khai thác kỹ tiền sử dị ứng thuốc của người bệnh trước khi sử dụng thuốc

267

96,4

Các nguyên nhân phổ biến gây phản vệ

264

96,3

Trang thiết bị y tế tối thiểu cấp cứu phản vệ tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh.

240

87,6

Các loại thuốc thường được dùng trong điều trị phản vệ tại bệnh viện

232

84,7

Thực phẩm dễ gây phản vệ nghiêm trọng

227

82,8

Nguyên tắc dự phòng phản vệ

213

77,7

Kiến thức về dự phòng phản vệ dao động từ 77,7% đến 98,2%. Nguyên tắc dự phòng phản vệ” có tỷ lệ trả lời đúng thấp nhất 77,7%.

Bảng 6. Kiến thức về xử trí phản vệ (n=274)

Kiến thức đúng về xử trí phản vệ

Tần số

Tỷ lệ (%)

Thuốc đầu tay cứu sống người bệnh trong xử trí sốc phản vệ từ độ 2 trở lên.

269

98,2

Nguyên tắc chung xử trí cấp cứu phản vệ

261

95,3

Cấp cứu phản vệ nhẹ (độ I)

257

92,7

Liều lượng adrenalin tiêm bắp phản vệ độ II

250

91,2

Mục tiêu sử dụng adrenalin và dịch truyền

247

90,1

Đường dùng ưu tiên ban đầu của adrenalin

219

79,9

Thời gian theo dõi mạch, huyết áp, nhịp thở, SpO2 trong giai đoạn ổn định

214

78,1

Tư thế người bệnh khi xử trí cấp cứu sốc phản vệ

194

70,8

Cách pha loãng thành dung dịch adrenalin (1/10.000) để tiêm tĩnh mạch chậm trong cấp cứu phản vệ

175

63,9

Số lần theo dõi mạch, huyết áp sau khi đã có đường truyền tĩnh mạch adrenalin

100

36,5

Cách pha loãng adrenalin truyền tĩnh mạch chậm

82

29,9

Điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức về xử trí phản vệ dao động từ 29,9% đến 98,2%. 3 nội dung có tỷ lệ trả lời dưới 70% là “Cách pha loãng thành dung dịch adrenalin để tiêm tĩnh mạch chậm trong cấp cứu phản vệ”; “Số lần theo dõi mạch, huyết áp sau khi đã có đường truyền tĩnh mạch adrenalin” và “Cách pha loãng adrenalin truyền tĩnh mạch chậm”.

    1.  Thái độ về dự phòng, xử trí phản vệ của đối tương nghiên cứu

Bảng 7. Thái độ tích cực về kiến thức phản vệ (n=274)

Tự tin vào kiến thức phản vệ

Tần số

Tỷ lệ %

Biết rõ những hậu quả nghiêm trọng do phản vệ gây ra. Nếu không xử trí phản vệ kịp thời.

273

99,6

Có ủng hộ ý tưởng nâng cao nhận thức của nhân viên y tế liên quan đến phản ứng phản vệ không?

270

98,5

Có muốn tham gia các buổi đào tạo nâng cao kiến thức về phản vệ không?

269

98,2

Có đủ kiến thức để nhận biết, phát hiện sớm phản vệ ở người bệnh.

259

94,5

Có đủ kiến thức để dự phòng phản vệ cho người bệnh

256

93,4

Có tự tin chia sẻ các kiến thức về dự phòng, nhận biết và xử trí phản vệ cho đồng nghiệp.

246

89,8

Có thể hướng dẫn các nhân viên khác trong khoa chưa biết cách xử trí phản vệ thực hiện xử trí khi phản vệ xảy ra

244

89

Điều dưỡng và kỹ thuật viên có thái độ rất tự tin vào kiến thức phản vệ. Tỷ lệ trả lời tích cực dao động từ 89% đến 98,5%.

Bảng 8. Thái độ tích cực về khả năng dự phòng phản vệ (n=274)

Thái độ Tự tin vào khả năng dự phòng phản vệ

Tần số

Tỷ lệ %

Có muốn tư vấn cho người bệnh để theo dõi tình trạng dị ứng

266

97,1

Có lời khuyên cho người bệnh để ngăn ngừa/ giảm thiểu phản ứng dị ứng trong tương lai không?

264

96,3

Hộp chống sốc luôn có sẵn, khi thực hiện các chăm sóc (tiêm, truyền, cho người bệnh uống thuốc, thủ thuật can thiệp,..)

273

99,6

Việc khai thác thông tin tiền sử, bệnh sử của người bệnh rất quan trọng trong việc dự phòng phản vệ

273

99,6

Có thường hướng dẫn người bệnh phát hiện các dấu hiệu nghi ngờ dị ứng không?

271

98,9

Có nắm rõ tất cả các vị trí của từng thành phần các trang thiết bị y tế và thuốc thiết yếu trong từng hộp chống sốc tại nơi làm việc

271

98,9

Tự tin nắm chắc các kỹ thuật test phản ứng dị ứng để thực hiện ngay trên người bệnh khi cần thiết

246

89,8

Có thể dự phòng phần lớn các trường hợp phản vệ xảy ra trong môi trường bệnh viện

242

88,3

Điều dưỡng và kỹ thuật viên có thái độ rất tích cực về khả năng dự phòng phản vệ. Tỷ lệ trả lời tích cực dao động từ 88,3% đến 97,1%.

Bảng 9. Thái độ tích cực về khả năng xử trí phản vệ (n=274)

Thái độ tự tin vào khả năng xử trí phản vệ

Tần số

Tỷ lệ %

Có thể xác định được chính xác các thuốc cần thiết, đường dùng, liều dùng để xử trí phản vệ theo từng mức độ

261

95,3

Nhận thức rõ, khi có phản vệ xảy ra với người bệnh, Anh/chị sẽ phải là người thực hiện xử trí ngay theo phác đồ, mà không đợi bác sĩ ra y lệnh

267

97,4

Có tự tin vào khả năng xử trí người bệnh phản vệ của mình không?

254

92,7

Điều dưỡng và kỹ thuật viên có thái độ rất tích cực về khả năng xử trí phản vệ. Tỷ lệ trả lời tích cực đạt trên 90%.

    1.  Đánh giá chung về kiến thức, thái độ dự phòng phản vệ (n=274)

 

                   Bảng 10. Kiến thức về dự phòng phản vệ (n=274)

Kiến thức

Tần số

Tỷ lệ %

Tốt

224

81,8

Trung bình

48

17,5

Kém

2

0,7

 

                       Bảng 11. Thái độ về dự phòng phản vệb(n=274)

Thái dộ

Tần số

Tỷ lệ %

Tích cực

256

93,4

Chưa tích cực

18

6,6

 

Bảng 12. Điểm trung bình về kiến thức, thái độ (n=274)

Điểm trung bình

Tổng số câu hỏi đánh giá

TB±SD (câu)

(Min-Max)

Kiến thức

29 câu

24,4±2,7

(11-29)

Thái độ

18 câu

17,1±1,8

(2-18)

Kiến thức:

Điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức tốt về phản vệ. Điểm trung bình kiến thức phản vệ là 24,4/29 điểm, thấp nhất là 11 điểm và cao nhất là 29 điểm. 81,8% có kiến thức tốt, 17,5 có kiến thức trung bình và 0,7% có kiến thực kém về phản vệ.

Thái độ:

Điều dưỡng và kỹ thuật viên có thái độ tích cực về phản vệ. Điểm thái độ phản vệ trung bình là 17,1/18 điểm. 93,4% có thái độ tích cực và 6,6% có thái độ chưa tích cực về phản vệ.

IV. BÀN LUẬN

    1.  Kiến thức về dự phòng và xử trí phản vệ

Kiến thức cơ bản về phản vệ bao gồm: khái niệm, nguyên nhân, thời gian xuất hiện triệu chứng, triệu chứng, chẩn đoán xác định, phân độ và diễn tiến của phản vệ. Điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức cơ bản phản vệ khá tốt. Kết quả này tương đồng với Nguyễn Văn Đĩnh [2]. Tốt hơn nghiên cứu của Sibabratta Patnaik [5].

Kiến thức công tác phòng ngừa phản vệ bao gồm: khai thác tiền sử dị ứng; chuẩn bị hộp thuốc cấp cứu và trang thiết bị y tế và thuốc tối thiểu cấp cứu phản vệ tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh khá tốt. Để dự phòng phản vệ cho người bệnh thì việc khai thác tiền sử dị ứng thuốc là vô cùng quan trọng. Nghiên cứu này có 96,4% biết khai thác tiền sử dị ứng thuốc của người bệnh trước khi sử dụng thuốc; 77,7% biết nguyên tắc dự phòng phản vệ. Kết quả tương đồng với nghiên cứu của Lê Bá Ngọc Thạch [3].  

Kiến thức xử trí về phản vệ: Theo hướng dẫn của Bộ Y tế về xử trí sốc phản vệ, đầu tiên phải ngừng tiếp xúc với dị nguyên, cho người bệnh nằm tại chỗ, ủ ấm, đặt người bệnh nằm đầu thấp, tiêm adrenalin dưới da theo liều lượng. Thuốc đầu tay trong điều trị sốc phản vệ tại bệnh viện là adrenalin, nhiều báo cáo đã chứng minh sử dụng adrenalin sớm, đúng đường dùng và liều dùng giúp hạn chế tiến triển xấu trên người bệnh bị phản vệ từ độ 2 [1]. Corticosteroid nên được coi là thuốc thứ hai, vì chúng có thể ngăn chặn phản ứng hai pha, nhưng tác dụng của chúng thường bắt đầu sau vài giờ [6]. Trong nghiên cứu này, 98,2% lựa chọn đúng adrenalin là thuốc đầu tay trong xử trí sốc phản vệ tại bệnh viện và 91,2% biết sử dụng liều adrenalin 1 mg/ml thực hiện cho người bệnh phản vệ độ 2 trở lên. Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh [2] và Sibabratta Patnaik [5]. Điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức chưa tốt về cách pha adrenalin truyền tĩnh mạch và thời gian theo dõi sau cấp cứu phản vệ. Thấp hơn nghiên cứu của Lê Bá Ngọc Thạch [3]. Nghiên cứu từ Iran báo cáo bác sĩ có kiến ​​thức cao hơn đáng kể so với điều dưỡng trong việc xử lý phản vệ [4].

Phản ứng phản vệ có thể tiến triển nhanh và dẫn đến tử vong. Do đó, việc nhận biết các triệu chứng của phản vệ và điều trị bằng adrenalin sớm với liều lượng và đường dùng chính xác là rất quan trọng. Để giảm tỷ lệ tử vong và các tai biến, nhân viên y tế cần có kiến thức phòng, xử trí phản vệ nhằm cấp cứu một cách khẩn trương, nhanh chóng và tiến hành ngay tại chỗ. Kết quả nghiên cứu cho thấy điều dưỡng và kỹ thuật viên có kiến thức tốt về phản vệ, chiếm tỷ lệ 81,4%. Điểm trung bình kiến thức phản vệ là 24,4/29 điểm. Kết quả tương đồng với bệnh viện Đa khoa quốc tế Vinmec Times City là 8,24/10 điểm [2]. Cao hơn so với nghiên cứu của Ấn Độ là 6,29/10 điểm [5]. Bên cạnh đó, nghiên cứu đã xác định được những khoảng trống kiến thức phản vệ của điều dưỡng và kỹ thuật viên: cách pha loãng adrenalin truyền tĩnh mạch chậm; số lần theo dõi mạch, huyết áp sau khi đã có đường truyền tĩnh mạch adrenalin.

    1.  Thái độ về dự phòng và xử trí phản vệ

Thái độ phản vệ của đối tượng nghiên cứu được chia thành 3 nội dung chính: tự tin vào vào kiến thức phản vệ; tự tin vào khả năng dự phòng phản vệ; tự tin vào khả năng xử trí phản vệ.

Tự tin vào kiến thức phản vệ: Điều dưỡng và kỹ thuật viên rất tự tin vào kiến thức phản vệ. Để nâng cao kiến thức trong đội ngũ nhân viên y tế can thiệp giáo dục là điều cần thiết. Ngoài các kiến thức từ các buổi giảng dạy/ hội thảo do khoa phòng, bệnh viện tổ chức thì các bác sĩ, điều dưỡng và kỹ thuật viên đóng vai trò như một thông tin quan trọng từ đồng nghiệp thông qua các kinh nghiệm cá nhân và tương tác thông qua công việc. Internet cũng là một nguồn hướng dẫn và kiến thức quan trọng cho tất cả nhân viên để tự tìm hiểu và cập nhật kiến thức mới. Việc tiếp thu kiến thức sẽ tốt hơn khi điều dưỡng và kỹ thuật viên đều có thái độ tích cực tìm hiểu và mong muốn cập nhật các kiến thức đúng và tốt nhất trong thực hành lâm sàng để chăm sóc người bệnh.

Tự tin vào khả năng dự phòng phản vệ: Điều dưỡng và kỹ thuật viên rất tự tin vào khả năng dự phòng phản vệ. Kết quả chúng tôi tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh: trên 90% có thái độ tích cực với việc hướng dẫn người bệnh phát hiện các dấu hiệu dị ứng tư vấn cho người bệnh để theo dõi dị ứng; cho lời khuyên giúp người bệnh ngăn ngừa/ giảm thiểu dị ứng trong tương lai [2]. Cao hơn một nghiên cứu tại Ấn Độ: 80% thường xuyên hướng dẫn người bệnh phát hiện các dấu hiệu nghi ngờ dị ứng và cho lời khuyên để ngăn ngừa/ giảm thiểu phản ứng dị ứng trong tương lai, bằng cách khuyên người bệnh tránh xa tác nhân gây dị ứng hoặc gặp bác sĩ để khám chuyên khoa và nghe những lời khuyên của bác sĩ chuyên ngành dị ứng [5].

Tự tin vào khả năng xử trí phản vệ: Điều dưỡng và kỹ thuật viên rất tự tin vào khả năng dự phòng phản vệ. Cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Văn Đĩnh với 83,3% điều dưỡng tự tin vào khả năng xử trí phản vệ [2]. Nghiên cứu của Sibabratta Patnaik chỉ có 56% bác sĩ và điều dưỡng cảm thấy tự tin có thể điều trị một trường hợp phản vệ [5].

Nhìn chung, điều dưỡng và kỹ thuật viên có thái độ rất tích cực về phản vệ. Điểm trung bình thái độ phản vệ là 17,1/18 điểm. Vẫn còn một số chưa tự tin khi thực hiện dự phòng phản vệ cho người bệnh, chưa tự tin khi chia sẻ kinh nghiệm thực hành và kiến thức phản vệ cho đồng nghiệp. Hầu hết nhân viên đều quan tâm đến việc tham dự các chương trình đào tạo về sốc phản vệ và ủng hộ nhu cầu nâng cao nhận thức cộng đồng về sốc phản vệ, kết quả này tương tự như các nghiên cứu trên thế giới về phản vệ đã công bố [5]. Phản vệ là một phản ứng dị ứng nghiêm trọng cần được xử lý ngay vì nó khởi phát nhanh và có thể dẫn đến tử vong. Việc cải thiện kiến ​​thức và thực hành của bác sĩ, điều dưỡng và kỹ thuật viên để chẩn đoán và điều trị chính xác, kịp thời tình trạng phản vệ là rất quan trọng và cần thiết.

V. KẾT LUẬN

Qua kết quả nghiên cứu cho thấy điều dưỡng và kỹ thuật viên của bệnh viện Nguyễn Trãi có kiến thức tốt và thái độ tích cực về phản vệ. Điểm trung bình kiến thức, thái độ tương ứng là 24,4/29 điểm, 17,1/18 điểm. Để nâng cao đồng thời kiến thức- thái độ về phản vệ của điều dưỡng và kỹ thuật viên chúng tôi có một số đề xuất sau: Các khoa phòng liên tục đào tạo và tái đào tạo cho nhân viên các kiến thức về phản vệ liên quan đến khái niệm, nguyên nhân, cơ chế, xử trí, điều trị theo quy định của Bộ Y tế và phác đồ trên thế giới. Phòng Điều dưỡng kiện toàn hệ thống quy trình và phác đồ chuẩn về xử trí phản vệ, quy trình báo cáo sự cố y khoa theo hướng dẫn của Bộ Y tế. Tăng cường kiểm tra, giám sát thực hiện quy trình cấp cứu phản vệ. Tổ chức lồng ghép kiểm tra kiến thức và thực hành xử trí sốc phản vệ trong các cuộc thi tay nghề hàng năm

Nghiên cứu trên 274 điều dưỡng và kỹ thuật viên tại Bệnh viện Nguyễn Trãi năm 2024 cho thấy:

  • Kiến thức: Điểm trung bình 24,4 ± 2,7/29; 81,4% có kiến thức tốt, 17,9% trung bình và 0,7% kém. Các khoảng trống chủ yếu liên quan đến kỹ năng pha loãng adrenalin truyền tĩnh mạch và theo dõi sau cấp cứu.
  • Thái độ: Điểm trung bình 17,1 ± 1,8/18; 93,4% có thái độ tích cực, thể hiện sự tự tin trong dự phòng và xử trí phản vệ, tuy nhiên một bộ phận nhỏ còn hạn chế khi chia sẻ kiến thức và hướng dẫn đồng nghiệp.

Kết quả cho thấy đội ngũ điều dưỡng và kỹ thuật viên có nền tảng kiến thức và thái độ tốt, nhưng bệnh viện vẫn cần: (i) Tổ chức các buổi tập huấn và tái đào tạo thường xuyên về phản vệ, tập trung vào những nội dung còn hạn chế (như nguyên tắc dự phòng, pha loãng và sử dụng adrenalin, theo dõi người bệnh sau cấp cứu); Xây dựng môi trường hỗ trợ: Tạo điều kiện để điều dưỡng và kỹ thuật viên chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm thực tế nhằm củng cố thái độ tích cực và sự tự tin trong dự phòng – xử trí phản vệ.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Bộ Y tế (2017). Thông tư số 51/2017/TT-BYT, ngày 29/12/2017, Hướng dẫn phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ.
  2. Nguyễn Văn Đĩnh, Hoàng Thị Giang cộng sự (2022). Kiến thức, thái độ và mức độ tuân thủ thực hành của điều dưỡng với phản vệ tại Bệnh viện đa khoa quốc tế Vinmec times city. Tạp chí Nhi khoa, 16- 01. https://doi.org/10.52724/tcnk.v16i1.155
  3. Lê Bá Ngọc Thạch, Nguyễn Thế Vinh và cộng sự (2020) Đánh giá kiến thức về phòng, chẩn đoán và xử trí phản vệ của điều dưỡng bệnh viện bỏng quốc gia lê hữu trác. Tạp chí Y học Thảm hoạ và Bỏng, 5, 95-101. https://jbdmp.vn/index.php/yhthvb/article/view/198
  4. Gharagozlou M, Afrough R, Malekzadeh I, Tavakol M (2019). Knowledge, attitude and practice of general practitioners and pediatricians regarding food allergy in Iran. Rev Fr Allergol; 59 (06) 421-426
  5. Patnaik S, Krishna S, Jain MK (2020). Knowledge,Attitude, and Practice regarding Anaphylaxis among Pediatric Health Care Providers in a Teaching Hospital. Journal of Child Science.10(1): e224-e229. doi:10.1055/s-0040-1720955
  6. Simons FE. Anaphylaxis: Recent advances in assessment and treatment (2009). J Allergy Clin Immunol. Oct;124(4):625-36; quiz 637-8. doi: 10.1016/j.jaci.2009.08.025. PMID: 19815109.

Simons FE, Ardusso LR, Bilò MB, El-Gamal YM, Ledford DK, Ring J, Sanchez-Borges M, Senna GE, Sheikh A, Thong BY; World Allergy Organization. World allergy organization guidelines for the assessment and management of anaphylaxis (2011). World Allergy Organ J. Feb;4(2):13-37. doi: 10.1097/WOX.0b013e318211496c. Epub 2011 Feb 23. PMID: 23268454; PMCID: PMC3500036.


Tin mới