Đánh giá mức độ độc lập trong hoạt động chức năng hằng ngày ở người bệnh nhồi máu não tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp năm 2023

Bài nghiên cứu "Đánh giá mức độ độc lập trong hoạt động chức năng hằng ngày ở người bệnh nhồi máu não tại bệnh viện đa khoa nông nghiệp năm 2023"

TÓM TẮT

Mục tiêu: Đánh giá mức độ độc lập của người bệnh nhồi máu não tại Bệnh viện Đa khoa Nông Nghiệp năm 2023.

Phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang sử dụng có thang điểm FIM (Functional Independence Measure - Thang đo độc lập chức năng).

Kết quả: Người bệnh đột quỵ não giảm khả năng tự chăm sóc bản thân, khả năng di chuyển và nhận thức. Đa số người bệnh bị phục thuộc ở mức độ trung bình chiếm 60,9%, phụ thuộc nghiêm trọng chiếm 29,7%, bị phụ thuộc nhẹ chiếm 9,4%.

Khuyến nghị: Cần lượng giá mức độ giảm khả năng độc lập của người bệnh để thực hiện chăm sóc điều dưỡng và phục hồi chức năng sớm; từ đó, người bệnh có cơ hội hồi phục tốt nhất và giảm biến chứng thứ phát.

Từ khóa: đột quỵ não, thang đo độc lập chức năng (FIM), phục hồi chức năng

ABSTRACT 

Objective: To examine the level of independence of patients with cerebral infarction at Agriculture General Hospital.

Methods: A cross-sectional descriptive study was conducted, using the FIM scale (Functional Independence Measure).

Results: People with stroke had major effects on self-care, mobility and cognition. The majority of patients were moderately dependent, accounting for 60.9% of the study participants while severe dependence accounts for 29.7%, and mild dependence accounted for 9.4%.

Recommendation: It is necessary to quantify the levels of reduced independence of the patients in order to provide early nursing care and rehabilitation; so that, the patient has the best recovery thereby reducing secondary complications.

Keywords: cerebral stroke, Functional Independence Measure (FIM), rehabilitation

1. ĐẶT VẤN ĐỀ: Sau cơn đột quỵ não qua đi, người bệnh có thể xuất hiện yếu, liệt vận động, điều này gây ra gánh nặng tàn tật, ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng vận động, sinh hoạt hằng ngày của người bệnh, đồng thời cũng gây ra những tổn thất về kinh tế cho gia đình và xã hội. Theo thống kê từ Tổ chức Y tế thế giới (WHO), có từ 1/4 đến 2/3 số người sống sót sau nhồi máu não và bị tàn tật vĩnh viễn [8]. Nhiều tác giả trong nước cho thấy tỷ lệ giảm khả năng độc lập trong sinh hoạt và di chuyển sau đột quỵ não [2], [1], [3]. Nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền trên nhóm người bệnh tai biến mạch máu não cho thấy, tỷ lệ phụ thuộc trung bình chiếm 42,9% và phụ thuộc hoàn toàn chiếm 39,3% [1]. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của Nguyễn Hoa Ngần trên nhóm người bệnh đột quỵ não đã tìm ra tỷ lệ phụ thuộc trung bình là 43,2% và phụ thuộc hoàn toàn chiếm 55,6% [3]. Nếu không được phục hồi nhanh chóng trong khoảng vài tuần đầu sau nhồi máu não thì tiên lượng ngày càng xấu đi, đồng thời với nó là tỷ lệ tàn phế về thể chất tăng lên. Chính vì vậy, đối với người bệnh sau biến cố đột quỵ não, tái hòa nhập cộng đồng và độc lập trong các sinh hoạt hàng ngày là tiêu chí được ưu tiên hàng đầu [2], [4]. Do đó, xác định mức độ độc lập trong chức năng hàng ngày ở người bệnh là cần thiết trong hoạt động chăm sóc điều dưỡng, nhằm đưa ra các can thiệp và hỗ trợ cho người bệnh phù hợp và kịp thời. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu: “Đánh giá mức độ độc lập trong hoạt động chức năng hàng ngày ở người bệnh đột quỵ nhồi máu não sau giai đoạn cấp”

2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

2.1. Đối tượng nghiên cứu

Tiêu chuẩn lựa chọn: Người bệnh trên 18 tuổi, đồng ý tham gia nghiên cứu; được chẩn đoán xác định nhồi máu não sau giai đoạn cấp. Tại thời điểm tham gia: người bệnh đã qua giai đoạn cấp (tối thiểu 24 giờ sau đột quỵ nhồi máu não). Tri giác theo thang điểm Glasgow = 15 điểm; chức năng sinh tồn gồm: mạch, nhiệt độ, huyết áp, nhịp thở bình thường.

Tiêu chuẩn loại trừ: Người bệnh liệt nửa người do những nguyên nhân khác như xuất huyết não, u não, chấn thương sọ não…

2.2. Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu được thiết kế theo phương pháp mô tả cắt ngang. Lựa chọn ngẫu nhiên 64 người bệnh đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu

2.3. Thời gian và địa điểm

Nghiên cứu được tiến hành tại Bệnh viện đa khoa Nông Nghiệp, thời gian từ tháng 03/2023 đến tháng 12/2023. Điều dưỡng tại khoa đánh giá hoạt động chức năng trong 3 ngày gần nhất ở người bệnh (kể cả khi có biến cố), sử dụng Thang đo độc lập chức năng FIM 

2.4. Bộ công c

FIM (Functional Independence Measure - Thang đo độc lập chức năng) được sử dụng để đo lường mức độ trầm trọng trong việc thực hiện chức năng sinh hoạt hàng ngày hay mức độ khuyết tật của người bệnh. Công cụ đánh giá FIM được thiết kế gồm 18 yếu tố, 13 yếu tố có liên quan đến chức năng vận động và chức năng tự chăm sóc, được chia thành 4 tiểu mục, bao gồm: 1. Khả năng tự chăm sóc (6 yếu tố): Ăn uống, vệ sinh cá nhân, tắm rửa, mặc trang phục nửa người trên, mặc trang phục nửa người dưới, đi vệ sinh; 2. Kiểm soát cơ tròn (2 yếu tố): kiểm soát đường ruột, kiểm soát đường tiểu; 3. Dịch chuyển (3 yếu tố): sử dụng nhà vệ sinh, dịch chuyển qua lại giữa giường, ghế và xe lăn, di chuyển trong nhà vệ sinh, sử dụng bồn tắm, vòi hoa sen; 4. Di chuyển (2 yếu tố): đi lại bằng hai chân hoặc xe lăn, lên xuống cầu thang.

Và 5 yếu tố liên quan đến nhận thức, chia thành 2 tiểu mục, bao gồm: Giao tiếp (2 yếu tố): Hiểu ngôn ngữ, Thể hiện ngôn ngữ; Nhận thức xã hội (3 yếu tố): Giải quyết vấn đề, tương tác xã hội và trí nhớ. Điểm tổng của FIM có giá trị từ 18 - 126 điểm. Mỗi yếu tố sẽ được đánh giá mức độ độc lập chức năng theo thang điểm từ 1 – 7 điểm:

- Độc lập (6 – 7 điểm): Hoạt động không cần người khác. 7 điểm: Độc lập hoàn toàn; 6 điểm: Độc lập có sự trợ giúp của dụng cụ, hoặc thời gian lâu hơn bình thường 

- Phụ thuộc (3 – 5 điểm): Người bệnh cần có một người khác giám sát hoặc hỗ trợ về thể chất để thực hiện hoạt động. 5 điểm: Cần người đứng cạnh, hướng dẫn hoặc hỗ trợ chuẩn bị. 4 điểm: Trợ giúp tối thiểu, người bệnh thực hiện được 75% động tác trở lên. 3 điểm: trợ giúp trung bình: Người bệnh thực hiện được 50-75% hoạt động.

- Phụ thuộc hoàn toàn (1 - 2 điểm): Người bệnh thực hiện được ít hơn một nửa (dưới 50%) hoạt động. Cần trợ giúp tối đa hoặc hoàn toàn. 2 điểm: Trợ giúp tối đa: Người bệnh thực hiện 25-50% hoạt động; 1 điểm: trợ giúp hoàn toàn: thực hiện ít hơn 25% hoạt động

Người bệnh được chia thành 3 nhóm phụ thuộc vào mức độ ảnh hưởng do đột quỵ tới khả năng độ lập chức năng:

- Phụ thuộc nhẹ: (FIM > 73)

- Phụ thuộc trung bình (37  FIM  72)

- Phụ thuộc nghiêm trọng (FIM  36

Phương pháp xử lý số liệu: Số liệu sau thu thập được mã hoá, làm sạch và được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0. 

* Đạo đức nghiên cứu: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá hoạt động chức năng hàng ngày ở người bệnh đột quỵ nhồi máu não điều trị tại bệnh viện. Nghiên cứu nhằm nâng cao và phục vụ người bệnh tốt hơn.

3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. Về đặc điểm chung: Độ tuổi trung bình của đối tượng tham gia nghiên cứu là 72 ± 4,6 tuổi. Tỷ lệ nam chiếm 57,8% và nữ chiếm 42,2%. Đột quỵ 1 lần chiếm 78,13%. Đa số người bệnh liệt trái, chiếm 65,6%, người bệnh liệt phải chiếm 34,4%.

3.2. Đánh giá mức độ độc lập trong hoạt động chức năng hàng ngày

Bảng 1. Mức độ độc lập ở hoạt động tự chăm sóc của đối tượng nghiên cứu

Tự chăm sóc

 

 

Chấm điểm

Ăn uống

VSCN

Tắm rửa

Mặc nửa người trên

Mặc nửa người dưới

Đi vệ sinh

n

%

n

%

n

%

n

%

n

%

n

%

Độc lập

7 điểm

0

0,0

0

0,0

0

0,0

0

0,0

0

0,0

0

0,0

6 điểm

0

0,0

2

3,1

0

0,0

0

0,0

0

0,0

1

1,6

Phụ thuộc

5 điểm

8

12,5

9

14,1

10

15,6

9

14,1

10

15,6

8

12,5

4 điểm

19

29,7

22

34,4

23

35,9

25

39,1

20

31,3

23

35,9

3 điểm

22

34,4

18

28,1

18

28,1

19

29,7

17

26,6

15

23,4

Phụ thuộc hoàn toàn

2 điểm

11

17,2

10

15,6

7

10,9

5

7,8

9

14,1

9

14,1

1 điểm

4

6,2

3

4,7

6

9,4

6

9,4

8

12,5

8

12,5

Nhận xét: Đánh giá các hoạt động tự chăm sóc: Hầu hết người bệnh đều không thể độc lập thực hiện các hoạt động chăm sóc hằng ngày. Cụ thể:

Về khả năng tự ăn uống: 76,6% ở mức bị phụ thuộc và 23,4% phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng vệ sinh cá nhân: 76,6 % ở mức bị phụ thuộc, 20,3% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Về hoạt động tắm rửa: 79,7 % bị phụ thuộc, 20,3% phụ thuộc hoàn toàn. Về mặc trang phục nửa người trên, 82,8 % bị phụ thuộc, 17,2% phụ thuộc hoàn toàn. Về mặc trang phục nửa người dưới, 73,4% bị phụ thuộc, 26,6% phụ thuộc hoàn toàn. Về đi vệ sinh, 71,9% bị phụ thuộc, 26,6% phụ thuộc hoàn toàn

Bảng 2. Mức độ độc lập ở hoạt động kiểm soát cơ tròn của đối tượng nghiên cứu

Kiểm soát cơ tròn

 

Chấm điểm

Kiểm soát đường tiểu

Kiểm soát đường ruột

n

%

n

%

Độc lập

7 điểm

0

0,0

0

0,0

6 điểm

0

0,0

1

1,6

Phụ thuộc

5 điểm

11

17,2

10

15,6

4 điểm

26

40,6

24

37,5

3 điểm

18

28,1

10

15,6

Phụ thuộc hoàn toàn

2 điểm

6

9,4

9

14,1

1 điểm

3

4,7

10

15,6

Nhận xét: Về khả năng kiểm soát đường tiểu: 85,9% ở mức bị phụ thuộc và 14,1% phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng kiểm soát đường ruột: 68,8 % ở mức bị phụ thuộc, 29,7% ở mức phụ thuộc hoàn toàn.

Bảng 3. Mức độ độc lập ở khả năng dịch chuyển của đối tượng nghiên cứu

Dịch chuyển

 

Chấm điểm

Dịch chuyển giường/ghế/xe lăn

Dịch chuyển

bệ vệ sinh

Dịch chuyển bồn tắm/buồng tắm

n

%

n

%

n

%

Độc lập

7 điểm

0

0,0

0

0,0

0

0,0

6 điểm

0

0,0

0

0,0

0

0,0

Phụ thuộc

5 điểm

8

12,5

11

17,2

10

15,6

4 điểm

21

32,8

22

34,4

20

31,3

3 điểm

16

25,0

19

29,7

21

32,8

Phụ thuộc hoàn toàn

2 điểm

8

12,5

7

10,9

7

10,9

1 điểm

11

17,2

5

7,8

6

9,4

Nhận xét: Về khả năng dịch chuyển giường, ghế, và/hoặc xe lăn: 70,3% ở mức bị phụ thuộc và 29,7% phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng dịch chuyển bệ vệ sinh: 81,3 % ở mức bị phụ thuộc, 18,8% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng dịch chuyển bồn tắm/buồng tắm: 79,7 % ở mức bị phụ thuộc, 20,3% ở mức phụ thuộc hoàn toàn.

Bảng 4. Mức độ độc lập ở khả năng di chuyển của đối tượng nghiên cứu

Di chuyển

 

Chấm điểm

Di chuyển đường thẳng

Lên xuống bậc cầu thang

n

%

n

%

Độc lập

7 điểm

0

0,0

0

0,0

6 điểm

1

1,6

0

0,0

Phụ thuộc

5 điểm

12

18,8

6

9,4

4 điểm

24

37,5

18

28,1

3 điểm

6

9,4

24

37,5

Phụ thuộc hoàn toàn

2 điểm

9

14,1

9

14,1

1 điểm

12

18,8

7

10,9

Nhận xét: Về khả năng di chuyển đường thẳng: 65,7% ở mức bị phụ thuộc và 32,8% phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng lên xuống bậc cầu thang: 75,0 % ở mức bị phụ thuộc, 25,0% ở mức phụ thuộc hoàn toàn.

Bảng 5. Mức độ độc lập ở các yếu tố liên quan đến nhận thức của đối tượng nghiên cứu

Nhận thức

 

Chấm điểm

Nghe/Nhìn

Diễn đạt

Tương tác xã hội

Giải quyết vấn đề

Trí nhớ

n

%

n

%

n

%

n

%

n

%

Độc lập

7 điểm

1

1,6

1

1,6

2

3,1

0

0,0

1

1,6

6 điểm

3

4,7

1

1,6

3

4,7

1

1,6

2

3,1

Phụ thuộc

5 điểm

15

23,4

16

25,0

15

23,4

10

15,6

10

15,6

4 điểm

24

37,5

24

37,5

22

34,4

21

32,8

22

34,4

3 điểm

13

20,3

10

15,6

10

15,6

14

21,9

14

21,9

Phụ thuộc hoàn toàn

2 điểm

6

9,4

8

12,5

9

14,1

9

14,1

9

14,1

1 điểm

2

3,1

4

6,3

3

4,7

9

14,1

6

9,4

Nhận xét: Về khả năng nghe/nhìn: 81,3% ở mức bị phụ thuộc và 12,5% phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng diễn đạt: 78,1 % ở mức bị phụ thuộc, 18,8% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng tương tác xã hội: 73,4% ở mức bị phụ thuộc và 18,8% phụ thuộc hoàn toàn. Về khả năng giải quyết vấn đề: 70,3 % ở mức bị phụ thuộc, 28,1% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Về trí nhớ: 71,9 % ở mức bị phụ thuộc, 23,4% ở mức phụ thuộc hoàn toàn

Bảng 6. Đánh giá khả năng độc lập trong sinh hoạt

Tổng điểm FIM

Số lượng (n)

Tỷ lệ (%)

Phụ thuộc nhẹ (FIM > 73)

6

9,4

Phụ thuộc trung bình (37 ≤ FIM ≤ 72)

39

60,9

Phụ thuộc nghiêm trọng (FIM < 36)

19

29,7

Tổng

64

100

Nhận xét: Đa số người bệnh bị phụ thuộc ở mức độ trung bình chiếm 60,9%; mức độ nghiêm trọng chiếm 29,7%; bị ảnh hưởng nhẹ chiếm 9,4%

4. BÀN LUẬN

4.1. Mức độ độc lập trong hoạt động chức năng ở từng hoạt động sống

* Đánh giá chức năng tự chăm sóc: Kết quả nghiên cứu cho thấy đột quỵ não ảnh hưởng lớn tới vận động chức năng của người bệnh đột quỵ não. Người bệnh đa số đều bị phụ thuộc 1 phần ở hầu hết các chức năng tự chăm sóc: ăn uống (76,6%); vệ sinh cá nhân (76,6%); tắm rửa (79,7%); mặc (nửa người trên), 82,8 %; mặc (nửa người dưới), 73,4%. Khả năng kiểm soát đường tiểu hầu hết ở mức phụ thuộc (85,9%); tuy nhiên, khả năng kiểm soát đường ruột kém hơn, 29,7% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Nghiên cứu của các tác giả khác cũng cho thấy, sau đột quỵ não nói chung, người bệnh có tổn thương tại não, ảnh hưởng tới khả năng độc lập sinh hoạt trong cuộc sống [1], [3].

Nghiên cứu của Trần Thị Nga và cộng sự (2020), cũng chỉ ra kết quả khả năng thực hiện các hoạt động sống hàng ngày của người bệnh tai biến mạch máu não bị ảnh hưởng đáng kể, cụ thể: Ăn uống: cần trợ giúp chiếm 42,0%, phụ thuộc hoàn toàn chiếm 34%. Tắm: phụ thuộc một phần chiếm 76,0%; Sử dụng nhà vệ sinh: phụ thuộc chiếm 56%; Chăm sóc bản thân, cần trợ giúp 44,0%; Thay quần áo: phụ thuộc một phần 44%, hoàn toàn: 26%; Leo bậc thang: cần trợ giúp 64%, không thể tự leo: 26% [2].

Nghiên cứu của Nguyễn Thị Thanh Thư và Nguyễn Thị Kim Liên (2021), cũng cho thấy người bệnh sau đột quỵ não giảm khả năng tự chăm sóc bản thân trong hầu hết công việc trong cuộc sống. Mức độ độc lập hoạt động ăn, tắm, vệ sinh đầu mặt, mặc quần áo, dịch chuyển, di chuyển, lên xuống cầu thang lúc vào viện đều ở mức thấp, tương ứng là 23,3%, 0%, 23,3%, 0% [6].

* Đánh giá chức năng vận động: Về khả năng dịch chuyển và di chuyển, tương tự như khả năng tự chăm sóc, hầu hết người bệnh đều bị phụ thuộc, cần sự hỗ trợ của người khác. Dịch chuyển tại giường/ghế/xe lăn: 70,3% ở mức bị phụ thuộc, dịch chuyển tại bệ vệ sinh: 81,3 % ở mức bị phụ thuộc, dịch chuyển bồn tắm/buồng tắm: 79,7 % ở mức bị phụ thuộc. Di chuyển đường thẳng: 65,7% ở mức bị phụ thuộc. Lên xuống bậc cầu thang: 75,0 % ở mức bị phụ thuộc.

Nguyễn Thị Thu Hiền và cộng sự (2019) cũng tìm thấy sự ảnh hưởng lớn tới hoạt động tự chăm sóc bản thân, vận động, di chuyển của người bệnh sau đột quỵ não, không có người bệnh nào độc lập trong hoạt động tắm, có rất ít người bệnh có khả năng tự vệ sinh cá nhân (2,7%), sử dụng nhà vệ sinh (0,9%) hay các hoạt động di chuyển như lên xuống cầu thang (11,6%), di chuyển từ giường sang ghế/xe lăn (16,1%) và tự di chuyển trên mặt bằng phẳng (24,1%) [1]. Nguyễn Thị Thanh Thư, cũng cho thấy người bệnh sau đột quỵ não bị phụ thuộc hoàn toàn khả năng di chuyển, đi lại bình thường, lên xuống cầu thang. Mức độ độc lập hoạt động dịch chuyển, di chuyển, lên xuống cầu thang lúc vào viện đều ở mức 0% [6].

* Đánh giá chức năng nhận thức: Đa số người bệnh cũng bị ảnh hưởng tới khả năng nhận thức. Về khả năng nghe/nhìn: 81,3% ở mức bị phụ thuộc. Khả năng diễn đạt: 78,1 % ở mức bị phụ thuộc, 18,8% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Khả năng tương tác xã hội: 73,4% ở mức bị phụ thuộc và 18,8% phụ thuộc hoàn toàn. Khả năng giải quyết vấn đề: 70,3 % ở mức bị phụ thuộc, 28,1% ở mức phụ thuộc hoàn toàn. Về trí nhớ: 71,9 % ở mức bị phụ thuộc, 23,4% ở mức phụ thuộc hoàn toàn.

4.2. Đánh giá khả năng độc lập trong sinh hoạt

Đa số người bệnh bị phụ thuộc ở mức độ trung bình chiếm 60,9%; phụ thuộc nghiêm trọng chiếm 29,7%; bị phụ thuộc nhẹ chiếm 9,4%. Một số nghiên cứu khác cũng cho kết quả tương đồng với nghiên cứu của chúng tôi, người bệnh sau đột quỵ não có tỷ lệ phụ thuộc trung bình và phụ thuộc nghiêm trọng ở mức cao.

Trong nghiên cứu của Trần Thanh Phong và Nguyễn Trung Hiếu (2021), tình trạng giảm vận động ở người bệnh sau đột quỵ được đánh giá theo thang điểm Barthel, tỷ lệ người bệnh đột quỵ não phụ thuộc ít chiếm: 14,1%; phụ thuộc trung bình 59,7%; phụ thuộc hoàn toàn 34,0% [5]. Tương tự, nghiên cứu của Nguyễn Thị Thu Hiền, tỷ lệ người bệnh đột quỵ não phụ thuộc ít chiếm 17,9%, phụ thuộc trung bình 42,9%, phụ thuộc hoàn toàn 39,3% [1]. Nghiên cứu của Nguyễn Hoa Ngần cũng cho thấy, tỷ lệ độc lập 1,2%, phụ thuộc một phần, 43,2%, phụ thuộc hoàn toàn 55,6% [3]. Nghiên cứu của Inouye M, chỉ ra, tỷ lệ phụ thuộc nhẹ chiếm 37,8%, phụ thuộc trung bình chiếm 37,9%, phụ thuộc hoàn toàn chiếm 31,3% [7].

Sự khác biệt tỷ lệ phụ thuộc giữa các nghiên cứu phụ thuộc vào địa điểm nghiên cứu, độ tuổi người tham gia, mức độ đột quỵ não và quá trình tập phục hồi chức năng sớm sau đột quỵ não [4]. Tỷ lệ phụ thuộc ở mức độ trung bình và nặng được đánh giá ở các nghiên cứu cho thấy sự ảnh hưởng lớn của xuất huyết não tới người bệnh sau khi ra viện [1], [3]. Điều này cho thấy tầm quan trọng của việc đẩy mạnh nâng cao dự phòng đột quỵ não nói chung và phục hồi chức năng sau đột quỵ não nhằm giảm thiểu nguy cơ tàn tật, giảm khả năng độc lập sau khi mắc bệnh cho người bệnh.

5. KẾT LUẬN

Người bệnh đột quỵ não giảm khả năng tự chăm sóc bản thân, di chuyển và nhận thức. Đa số người bệnh bị phục thuộc ở mức độ trung bình chiếm 60,9%, tỷ lệ phụ thuộc nghiêm trọng chiếm 29,7% và bị phụ thuộc nhẹ chiếm 9,4%.

6. KHUYẾN NGHỊ

Điều dưỡng cần lượng giá mức độ giảm khả năng độc lập của người bệnh để thực hiện chăm sóc điều dưỡng và phục hồi chức năng sớm; từ đó, hỗ trợ người bệnh có cơ hội hồi phục tốt nhất qua đó giảm biến chứng thứ phát.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Thị Thu Hiền, Cao Thị Dung và Trần Thị Hồng Xiêm (2019). Nhận xét đặc điểm lâm sàng và mức độ hoạt động lập trong sinh hoạt hằng ngày theo thang điểm Barthel của người bệnh tai biến mạch máu não tại bệnh viện đa khoa tỉnh Thái Bình năm 2019. Khoa học Điều dưỡng, Tập 03 – Số 04: p. 77–84.

2. Trần Thị Nga, Cao Thị Ngọc Anh và Hà Thị Bích Liên (2020). Kết quả phục hồi chức năng vận động cho người bệnh tai biến mạch máu não điều trị tại Bệnh viện Y dược cổ truyền Sơn La năm 2019. Tạp chí Nghiên cứu Y học, 130 (6): p. 57–64.

3. Nguyễn Hoa Ngần, Hoàng Khải Lập và Nguyễn Phương Sinh (2021). Hiệu quản can thiệp mức độ độc lập chức năng sinh hoạt hằng ngày sau phục hồi chức năng tại nhà cho người bệnh đột quỵ não ở Thành phố Thái Nguyên. Tạp chí Y Học Việt Nam, Số 1 tháng 5 năm 2021: p. 154–158.

4. Võ Hoàng Nghĩa, Cao Minh Châu và Lã Ngọc Quang (2021). Nhu cầu chăm sóc phục hồi chức năng và một số yếu tố liên quan đến mức độ độc lập trong sinh hoạt hàng ngày người bệnh đột quỵ não khi xuất viện tại Bệnh viện Chợ Rẫy năm 2020. Tạp chí Y dược lâm sàng 108, Tập 16-Số 1/2021: p. 135–143.

5. Trần Thanh Phong và Nguyễn Trung Kiên (2021). Nghiên cứu tình hình suy giảm vận động theo thang điểm Barthel và đánh giá kết quả phục hồi chức năng vận động trên người bệnh sau đột quỵ não tại Bệnh viện đa khoa trung tâm An Giang năm 2020 - 2021. Tạp chí Y Dược học Cần Thơ, Số 43/2021: p. 160–164.

6. Nguyễn Thị Thanh Thư và Nguyễn Thị Kim Liên (2021). Đánh giá kết quả hoạt động trị liệu trong phục hồi chức năng sinh hoạt hàng ngày ở người bệnh nhồi máu não trên lều. Tạp chí Y Học Việt Nam, Tập 506-Tháng 9-Số 2: p. 245–249.

7. Inouye M., Hashimoto H., Mio T. et al. (2001). Influence of admission functional status on functional change after stroke rehabilitation. Am J Phys Med Rehabil, 80(2): p. 121–125.

8. Writing Group Members, Mozaffarian D., Benjamin E.J. et al. (2016). Heart Disease and Stroke Statistics-2016 Update: A Report From the American Heart Association. Circulation, 133(4), e38-360.


Tin liên quan

Tin mới