Thay đổi kiến thức, thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc sau giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2025
TÓM TẮT
Mục tiêu: Đánh giá thực trạng và sự thay đổi kiến thức, thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc sau can thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
Phương pháp: Nghiên cứu can thiệp so sánh trước – sau, thực hiện trên 92 người chăm sóc chính của trẻ dưới 2 tuổi. Bộ công cụ khảo sát được xây dựng từ nghiên cứu trước, dữ liệu được xử lý bằng SPSS 23.0 với các phép kiểm định T-test và ANOVA.
Kết quả: Trước can thiệp, 51,1% người chăm sóc có kiến thức ở mức trung bình, 42,4% mức kém và 6,5% mức tốt; 66,3% có thực hành ở mức trung bình, 17,4% mức kém và 16,3% mức tốt. Kiến thức và thực hành khác biệt có ý nghĩa thống kê theo giới, kiểu gia đình, trình độ học vấn, số con, tuổi và thói quen ăn đêm của trẻ (p < 0,05). Sau can thiệp, điểm trung bình kiến thức tăng từ 10,04 ± 2,16 lên 14,73 ± 1,52 và thực hành từ 5,46 ± 1,07 lên 6,98 ± 0,91 (p < 0,05). Tỷ lệ đạt chuẩn kiến thức và thực hành đều đạt 100%, cho thấy hiệu quả rõ rệt của chương trình giáo dục sức khỏe.
Kết luận: Giáo dục sức khỏe có hiệu quả rõ rệt trong nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi, cần được tăng cường triển khai thường xuyên và phù hợp với bối cảnh văn hóa.
Từ khóa: Người chăm sóc; chăm sóc răng miệng; kiến thức; thực hành; trẻ dưới 2 tuổi.
ABSTRACT
Objective: To assess the current status and changes in caregivers’ knowledge and practices regarding oral health care for children under two years of age after a health education intervention at Thai Nguyen National Hospital.
Methods: A pre–post interventional study was conducted with 92 primary caregivers of children under two. Data were collected using a structured questionnaire adapted from previous research and analyzed with SPSS 23.0, applying T-test and ANOVA for comparisons.
Results: Before the intervention, 51.1% of caregivers had moderate knowledge, 42.4% had poor knowledge, and 6.5% demonstrated good knowledge. Regarding practice, 66.3% showed moderate practice, 17.4% poor, and 16.3% good. Statistically significant differences in knowledge and practice were observed by caregiver gender, family type, educational level, number of children, child’s age, and nighttime feeding (p < 0.05). After the intervention, mean knowledge scores increased from 10.04 ± 2.16 to 14.73 ± 1.52, and practice scores from 5.46 ± 1.07 to 6.98 ± 0.91 (p < 0.05). The proportion of caregivers meeting adequate knowledge and practice standards rose to 100%, demonstrating the effectiveness of the program.
Conclusion: Health education significantly improved caregivers’ knowledge and practices in oral care for children under two years, highlighting the need for regular, culturally adapted interventions.
Keywords: Caregiver; oral health; knowledge; practice; children under two.
- ĐẶT VẤN ĐỀ
Các bệnh về sức khỏe răng miệng là bệnh không lây nhiễm phổ biến nhất ảnh hưởng đến khoảng một nửa dân số thế giới. Khoảng 2,4 tỷ người bị sâu răng vĩnh viễn và 486 triệu trẻ em bị sâu răng sữa. Sâu răng không được điều trị ở răng sữa là tình trạng phổ biến thứ 10 trên toàn cầu vào năm 2010, ảnh hưởng đến 621 triệu trẻ em, với tỷ lệ mắc bệnh trên toàn cầu là 9% [2]. Sâu răng không chỉ làm suy giảm sức khỏe răng miệng mà còn ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của trẻ [3]. Phòng ngừa và phát hiện sớm từ khi trẻ dưới 2 tuổi là rất cần thiết vì sâu răng có thể gây đau, biếng ăn, rối loạn giấc ngủ, sụt cân và ảnh hưởng hành vi, học tập. S.mutans là vi khuẩn chính có liên quan đến các bệnh răng miệng, xâm nhập ở khoang miệng của trẻ. Sự xâm nhập này diễn ra ngay từ giai đoạn sơ sinh đến khi trẻ được 24-26 tháng còn gọi là “cửa sổ lây nhiễm” [4]. Ở giai đoạn này, việc chăm sóc răng miệng phụ thuộc chủ yếu vào người chăm sóc. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh chủ quan vì nghĩ rằng trẻ chưa mọc đủ răng, đặc biệt khi trẻ có thói quen bú đêm hoặc khi bị bệnh. Khảo sát năm 2022 cho thấy 75,5% người chăm sóc có kiến thức ở mức trung bình, chỉ 13% đạt mức tốt; thực hành chăm sóc răng miệng cũng chủ yếu ở mức trung bình (56,5%). Các yếu tố như giới, nghề nghiệp, số con, tình trạng sức khỏe và thói quen ăn uống của trẻ có liên quan đến kiến thức và thực hành này (p<0,05). Nghiên cứu khuyến nghị tăng cường truyền thông – giáo dục sức khỏe cho người chăm sóc trẻ dưới 2 tuổi, đặc biệt qua các chương trình giáo dục dựa trên lý thuyết nhằm hình thành hành vi bền vững [1]. Đây cũng là nội dung được triển khai định kỳ bởi điều dưỡng Trung tâm Nhi khoa – Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên, phối hợp với giảng viên và sinh viên Trường Đại học Y Dược Thái Nguyên trong quá trình thực hành lâm sàng. Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu:
1. Mô tả thực trạng kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc trẻ tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2025
2. Đánh giá sự thay đổi về kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc trẻ sau can thiệp giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Đối tượng nghiên cứu: Là người chăm sóc chính của trẻ đến khám và điều trị cho trẻ dưới 2 tuổi tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
* Tiêu chuẩn chọn:
- Người chăm sóc chính của trẻ đến khám và điều trị cho trẻ dưới 2 tuổi tại Trung tâm Nhi khoa, phòng khám Nhi thuộc khoa Khám bệnh và phòng khám Nhi thuộc khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên.
- Là người dành nhiều thời gian chăm sóc trẻ tại nhà. Đồng ý tham gia vào nghiên cứu. Có khả năng đọc và hiểu tiếng Việt.
* Tiêu chuẩn loại trừ:Trẻ trong tình trạng nguy kịch, cấp cứu. Người chăm sóc là nhân viên y tế.
* Địa điểm và thời gian: Trung tâm Nhi khoa, phòng khám Nhi thuộc khoa Khám bệnh và phòng khám Nhi thuộc khoa Khám bệnh theo yêu cầu, Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên từ tháng 01 năm 2025 đến tháng 12 năm 2025
2.2. Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu can thiệp có so sánh trước – sau.
2.3. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu: Chọn mẫu thuận tiện, toàn bộ người chăm sóc của trẻ, đủ tiêu chuẩn tham gia nghiên cứu và trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2025.
2.4. Chỉ số, biến số nghiên cứu
+ Phần I: Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu: tuổi, giới, khu vực sống, trình độ văn hóa, kiểu gia đình...
+ Phần II: Kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc
+ Phần III. Sự thay đổi kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc
+ Phần IV. Các yếu tố liên quan đến kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc
2.5. Tiêu chuẩn và cách đánh giá
- Xây dựng bộ câu hỏi: Bộ công cụ được phát triển từ nghiên cứu “Kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2022” của tác giả Trần Lệ Thu & CS (2021) [1]
Cách đánh giá: Mỗi câu trả lời đúng sẽ được 1 điểm, sai là 0 điểm. Sau đó, sẽ tính tổng điểm của mỗi phần
- Mức độ kém: khi tổng điểm ≤ 50%(kiến thức kém nếu tổng điểm kiến thức ≤ 9 điểm; thực hành kém nếu tổng điểm thực hành ≤ 4 điểm).
- Mức độ trung bình: khi tổng điểm từ 51%-75% (tổng điểm kiến thức từ 10-13 điểm; tổng điểm thực hành 5-6 điểm).
- Mức độ tốt: khi tổng điểm > 75% (tổng điểm kiến thức > 14 điểm; tổng điểm thực hành > 7 điểm).
2.6. Phương pháp thu thập số liệu
Bước 1: Lập kế hoạch nghiên cứu
Bước 2: Tập huấn cho điều tra viên
Bước 3: Tiến hành thu thập số liệu trước can thiệp (T1)
Bước 4: Tiến hành can thiệp giáo dục sức khỏe. Buổi can thiệp giáo dục sức khỏe được thực hiện theo các hình thức: Buổi truyền thông giáo dục sức khỏe hàng tuần/tháng tại khoa do Điều dưỡng trưởng chủ trì.
Bước 5: Tiến hành thu thập số liệu sau can thiệp (T2). Sau khi nhận lại phiếu trả lời, nếu có nội dung nào còn thiếu sót, nhóm nghiên cứu tiếp tục giải thích và nhấn mạnh lại để đảm bảo thông tin được ghi nhớ.
2.7. Xử lý số liệu: sử dụng phần mềm SPSS 23.0.
+ Sử dụng phương pháp thống kê mô tả (Descriptive statistics), frequencies (bao gồm: Tần xuất, tỷ lệ %, trung bình và độ lệch chuẩn) để tóm tắt đặc điểm thông tin chung của đối tượng nghiên cứu
+ Mô tả sự khác biệt ý nghĩa về kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ của người chăm sóc trước và sau GDSK được thực hiện bởi phép kiểm định T – test, Anova.
3.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu trên 92 người chăm sóc chính của trẻ trong đó có 71,7% là nữ giới; 50% người thuộc độ tuổi từ 25-35 tuổi; 76,1% dân tộc Kinh; 59,8% thuộc kiểu gia đình đa thế hệ; 59,8% sống ở thành thị; 72,8% trẻ trai; 63% trẻ thuộc độ tuổi từ 1-2 tuổi; 84,8% trẻ đã mọc răng; 51,1% trẻ mọc răng khi trên 6 tháng. Trong 92 người tham gia nghiên cứu, có 51,1% người có trình độ trung học chuyên nghiệp, cao đẳng; 64,1% người có nghề nghiệp là công nhân, cán bộ viên chức; 37% người có 1 con.
Có 75% trẻ có vấn đề về đường hô hấp; 51,1% trẻ thích ăn uống sữa và các sản phẩm từ sữa; 75% trẻ có thói quen ngậm thức ăn; 63% trẻ ngậm trong các bữa ăn chính và 64,1% trẻ thường ăn đêm là sữa công thức.
Kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ của đối tượng nghiên cứu
Trong tổng số 92 người chăm sóc, có 100% người trả lời sai về việc cho con bú đêm thường xuyên, kéo dài; 87% người không biết vi khuẩn gây sâu răng có thể lây từ mẹ sang con và 87% người không biết sự liên quan giữa bệnh răng miệng và vấn đề sức khỏe trẻ đang gặp phải.
Có 51,1% người tham gia nghiên cứu có kiến thức về chăm sóc răng miệng cho trẻ ở mức độ trung bình; 42,4% mức độ kém và 6,5% ở mức độ tốt.
Trong 92 người chăm sóc trẻ, 100% người chưa cho trẻ đi khám đúng định kỳ; 100% người đã giám sát, hỗ trợ trẻ vệ sinh răng miệng hàng ngày, có 63% người chưa sử dụng bàn chải thích hợp cho trẻ.
Có 66,3% người tham gia nghiên cứu có thực hành chăm sóc răng miệng ở mức độ trung bình; 16,3% người ở mức độ tốt và 17,4% người ở mức độ kém.
Bảng 1. Các yếu tố liên quan đến kiến thức chăm sóc răng miệng cho trẻ
|
STT |
Các yếu tố |
KT kém (n, %) |
KT trung bình (n, %) |
KT tốt (n, %) |
p |
|
|
1 |
Giới của NCS |
Nam |
8 (30,8) |
13 (50) |
5 (19,2) |
0,000 |
|
Nữ |
47 (71,2) |
18 (27,3) |
1 (1,5) |
|||
|
2 |
Kiểu gia đình |
Hạt nhân |
18 (48,6) |
13 (35,1) |
6 (16,3) |
0,006 |
|
Đa thế hệ |
37 (67,3) |
18 (32,7) |
0 |
|||
|
TĐHV |
THPT |
19 (86,4) |
3 (13,6) |
0 |
0,001 |
|
|
THCN, CĐ |
27 (57,4) |
19 (40,4) |
1 (2,2) |
|||
|
ĐH, SĐH |
9 (39,1) |
9 (39,1) |
5 (21,8 |
|||
|
4 |
Số con |
1 trẻ |
10 (29,5) |
18 (52,9) |
6 (17,6) |
0,000 |
|
2 trẻ |
18 (72) |
7 (28) |
0 |
|||
|
Trên 2 trẻ |
27 (81,8) |
6 (18,2) |
0 |
|||
|
5 |
Tuổi của trẻ |
≤ 6 tháng |
8 (72,7) |
3 (27,3) |
0 |
0,000 |
|
6 tháng–<1 tuổi |
5 (21,7) |
12 (52,2) |
6 (26,1) |
|||
|
1-2 tuổi |
42 (72,4) |
16 (27,6) |
0 |
|||
|
6 |
Tình trạng ăn đêm của trẻ |
Bú mẹ |
8 (34,8) |
9 (39,1) |
26,1) |
0,000 |
|
Sữa công thức |
38 (64,4) |
21 (35,6) |
0 |
|||
|
Không ăn đêm |
9 (90) |
1 (10) |
0 |
|||
* T-test; Anova
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về kiến thức chăm sóc răng miệng cho trẻ theo giới của người chăm sóc, kiểu gia đình, TĐHV và số con của người chăm sóc; tuổi của trẻ, tình trạng ăn đêm của trẻ (p<0,05).
Bảng 2. Các yếu tố liên quan đến thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ
|
STT |
Các yếu tố |
TH kém (n, %) |
TH trung bình (n, %) |
TH tốt (n, %) |
p |
|
|
1 |
Giới của NCS |
Nam |
0 |
22 (84,6) |
4 (15,4) |
0,017 |
|
Nữ |
16 (24,2) |
39 (59,1) |
11 (16,7) |
|||
|
2 |
Kiểu gia đình |
Hạt nhân |
0 |
27 (73) |
10 (27) |
0,000 |
|
Đa thế hệ |
16 (29,1) |
34 (61,8) |
5 (9,1) |
|||
|
3 |
TĐHV |
THPT |
16 (72,7) |
6 (27,3) |
0 |
0,000 |
|
THCN, CĐ |
0 |
37 (78,7) |
10 (21,3) |
|||
|
ĐH, SĐH |
0 |
18 (78,3) |
5 (21,7) |
|||
|
4 |
Số con |
1 trẻ |
0 |
29 (85,3) |
5 (14,7) |
0,000 |
|
2 trẻ |
0 |
15 (60) |
10 (40) |
|||
|
Trên 2 trẻ |
16 (48,5) |
17 (51,5) |
0 |
|||
|
5 |
Tuổi của trẻ |
≤ 6 tháng |
0 |
11 (100) |
0 |
0,000 |
|
6 tháng–<1 tuổi |
0 |
23 (100) |
0 |
|||
|
1-2 tuổi |
16 (27,6) |
27 (46,6) |
15 (25,8) |
|||
|
6 |
Tình trạng ăn đêm của trẻ |
Bú mẹ |
0 |
23 (100) |
0 |
0,000 |
|
Sữa CT |
11 (18,6) |
34 (57,6) |
14 (23,8) |
|||
|
Không ăn đêm |
5 (50) |
4 (40) |
1 (10) |
|||
* T-test; Anova
Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ theo giới của người chăm sóc, kiểu gia đình, TĐHV và số con của người chăm sóc; tuổi của trẻ, tình trạng ăn đêm của trẻ (p<0,05).
Thay đổi kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ sau can thiệp giáo dục sức khỏe
Bảng 3. Kết quả chung điểm trung bình kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ trước và sau can thiệp (n=92)
|
Thời điểm đánh giá |
Điểm đạt |
p (t-test) |
||
|
Thấp nhất (Min) |
Cao nhất (Max) |
Trung bình (X± SD) |
||
|
Kiến thức |
|
|||
|
Trước can thiệp (T1) |
7 |
16 |
10,04 ± 2,16 |
p(2-1) = 0,000 |
|
Sau can thiệp (T2) |
10 |
17 |
14,73 ± 1,52 |
|
|
Thực hành |
|
|||
|
Trước can thiệp (T1) |
3 |
7 |
5,46 ± 1,07 |
p(2-1) = 0,000 |
|
Sau can thiệp (T2) |
4 |
8 |
6,98 ± 0,91 |
|
Sau can thiệp, điểm trung bình kiến thức tăng từ 10,04 ± 2,16 lên 14,73 ± 1,52 và thực hành tăng từ 5,46 ± 1,07 lên 6,98 ± 0,91; sự cải thiện này có ý nghĩa thống kê (p = 0,000), cho thấy hiệu quả rõ rệt của can thiệp trong nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ.
Bảng 4. Đánh giá hiệu quả can thiệp kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng của đối tượng nghiên cứu
|
|
Trước can thiệp (%) |
Sau can thiệp (%) |
CSHQ (%) |
|
Kiến thức ở mức đạt (≥50%) |
71,7 |
100 |
39,5 |
|
Thực hành ở mức đạt (≥50%) |
82,6 |
100 |
21,1 |
Kết quả cho thấy hiệu quả can thiệp rõ rệt: tỷ lệ kiến thức đạt tăng từ 71,7% lên 100% (CSHQ 39,5%) và thực hành đạt tăng từ 82,6% lên 100% (CSHQ 21,1%), khẳng định tính hiệu quả của chương trình trong nâng cao kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho đối tượng nghiên cứu.
4. BÀN LUẬN
Kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ
Cha mẹ và / hoặc người chăm sóc đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sức khỏe răng miệng và chịu trách nhiệm chính trong việc dạy con cái họ kỹ năng vệ sinh đúng cách và phát triển thói quen vệ sinh răng miệng hiệu quả. Khi trẻ chưa đầy 2 tuổi, là giai đoạn phát triển và hoàn thiện về cả số lượng, chức năng các cơ quan trong cơ thể, trong đó có răng miệng. Đây cũng là lứa tuổi đa phần theo xu hướng “bắt chước” hành vi của người lớn để hình thành hành vi bản thân và phụ thuộc vào sự hỗ trợ của người lớn nên sẽ chịu ảnh hưởng rất nhiều từ các bậc phụ huynh. Dữ liệu cho thấy kiến thức chăm sóc răng miệng của người chăm sóc còn nhiều hạn chế, đặc biệt ở những nội dung mang tính nền tảng và có ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe răng miệng của trẻ nhỏ. Đây là yếu tố then chốt trong việc lý giải nguy cơ sâu răng sớm thời thơ ấu (ECC) đang phổ biến hiện nay, đồng thời là cơ sở cho việc xây dựng các chiến lược can thiệp giáo dục phù hợp. Vi khuẩn Streptococcus mutans – tác nhân chính gây sâu răng – có thể lây từ mẹ sang trẻ thông qua thói quen "mớm" thức ăn, dùng chung dụng cụ ăn uống, điều này khẳng định cần nhấn mạnh thông tin này trong giáo dục cộng đồng [13].
Kết quả phân tích cho thấy thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố nhân khẩu học và hành vi, trong đó giới tính, kiểu gia đình, trình độ học vấn, số con, độ tuổi của trẻ và thói quen ăn đêm đều có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05). Kết quả này đặt ra giả thuyết rằng sự "quen tay" trong chăm sóc có thể không đồng nghĩa với thực hành đúng, nếu không đi kèm với kiến thức cập nhật. Trong môi trường đa thế hệ, người chăm sóc thường bị chi phối bởi ý kiến từ người lớn tuổi, vốn có xu hướng duy trì những thói quen không còn phù hợp với bằng chứng khoa học hiện đại. Trình độ học vấn không chỉ ảnh hưởng đến kiến thức mà còn tác động tích cực đến hành vi thực hành. Số con cũng là yếu tố then chốt, phản ánh sự "mất tập trung" khi chăm sóc nhiều trẻ hoặc tâm lý chủ quan khi dựa vào kinh nghiệm thay vì tiếp tục cập nhật kiến thức. Về phía trẻ, thực hành của người chăm sóc có xu hướng phù hợp hơn khi trẻ còn nhỏ, cho thấy xu hướng “giảm chú ý” khi trẻ lớn dần, mặc dù đây lại là giai đoạn trẻ bắt đầu ăn đa dạng và mọc nhiều răng – giai đoạn có nguy cơ sâu răng cao nhất nếu không duy trì chăm sóc tốt. Thói quen ăn đêm của trẻ cũng ảnh hưởng đến thực hành của người chăm sóc, điều có thể xuất phát từ việc chủ quan, cho rằng không còn nguy cơ nên không chú trọng vệ sinh miệng đầy đủ sau ăn.
Thay đổi kiến thức, thực hành của đối tượng nghiên cứu về chăm sóc răng miệng cho trẻ
Can thiệp giáo dục sức khỏe đã mang lại hiệu quả rõ rệt trong việc cải thiện hành vi thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ, với nhiều nội dung đạt sự thay đổi có ý nghĩa thống kê (p < 0,05), đặc biệt là những hành vi vốn tồn tại nhiều sai lệch hoặc bị bỏ qua trước đó. Điều này cho thấy người chăm sóc không chỉ tiếp thu kiến thức mà đã chuyển hóa thành hành động cụ thể, phù hợp với khuyến cáo về phòng ngừa lây nhiễm vi khuẩn và đảm bảo hiệu quả vệ sinh [5]. Đây là những thay đổi tuy không quá lớn nhưng có ý nghĩa trong cải thiện thực hành hàng ngày một cách bền vững, vì dinh dưỡng và sản phẩm chăm sóc là hai yếu tố thường bị bỏ qua trong chăm sóc răng miệng cho trẻ nhỏ. Kết quả Bảng 3 và 4 đã tiếp tục củng cố bằng chứng vững chắc về hiệu quả can thiệp giáo dục sức khỏe, với tỷ lệ đối tượng đạt chuẩn kiến thức và thực hành sau can thiệp đều đạt 100%, so với mức ban đầu lần lượt là 71,7% (kiến thức) và 82,6% (thực hành). Chênh lệch sau can thiệp (CSHQ) đạt 39,5% đối với kiến thức và 21,1% đối với thực hành, phản ánh sự cải thiện toàn diện và rõ ràng, không chỉ về mặt trung bình điểm số mà còn về tỷ lệ người đạt chuẩn. Điểm nổi bật ở đây là kiến thức tăng mạnh cả về mức độ và độ phủ, từ gần ba phần tư số người đạt trước can thiệp lên mức phổ cập hoàn toàn sau can thiệp. Do đó, tỷ lệ đạt sau can thiệp cho thấy chương trình đã thành công không chỉ ở mặt nhận thức mà còn ở việc tác động trực tiếp đến hành vi, điều này phù hợp với lý thuyết hành vi sức khỏe. Sự kết hợp giữa cung cấp kiến thức đúng, thực hành lặp đi lặp lại,
và truyền thông phù hợp ngữ cảnh văn hóa là yếu tố cốt lõi tạo nên sự thay đổi hành vi bền vững [6] – điều mà kết quả nghiên cứu đã phần nào chứng minh.
5. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Trần, L. T., Nguyễn, T. T. N. & Nông, P. M. Kiến thức và thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2022. Tạp chí Khoa học và Công nghệ Y Dược 2, 141–155 (2023).
- Fitzmaurice, C., Allen, C., Barber, R. M., Barregard, L., Bhutta, Z. A., Brenner, H., ... & Satpathy, M. (2017). Global, regional, and national cancer incidence, mortality, years of life lost, years lived with disability, and disability-adjusted life-years for 32 cancer groups, 1990 to 2015: a systematic analysis for the global burden of disease study. JAMA oncology, 3(4), 524-548.
- Orhan, D. D., Sulak, E. M., Pekacar, S., Gok, H. N., Ozüpek, B., & Özçelik, B. (2025). Investigation of the quality, antimicrobial, and antioxidant effects of commercial carob molasses and determination of phenolic acids by using HPLC. Journal of Food Science, 90(2), e70000.
- Butera, A., Maiorani, C., Morandini, A., Simonini, M., Morittu, S., Trombini, J., & Scribante, A. (2022). Evaluation of children caries risk factors: A narrative review of nutritional aspects, oral hygiene habits, and bacterial alterations. Children, 9(2), 262.
- Suprabha, B. S., D’Souza, V., Shenoy, R., Karuna, Y. M., Nayak, A. P., & Rao, A. (2021). Early childhood caries and parents’ challenges in implementing oral hygiene practices: a qualitative study. International Journal of Paediatric Dentistry, 31(1), 106-114.
- Aririguzoh, S. (2022). Communication competencies, culture and SDGs: effective processes to cross-cultural communication. Humanities and Social Sciences Communications, 9(1), 1-11.
Tin mới
-
Các ca viêm màng não do não mô cầu được ghi nhận tăng mạnh từ đầu năm 2025,...11/12/2025 19:10
-
Trẻ em Việt Nam gia tăng bệnh hen, béo phì, tiểu đường tuýp 1 và rối loạn chuyển hóa
Hội nghị Chỉ đạo tuyến Nhi khoa 2025 cho thấy mô hình bệnh tật trẻ em đang thay...11/12/2025 19:52 -
Quốc hội chính thức cấm đầu tư, kinh doanh thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng
Sáng 11/12, Quốc hội thông qua Luật Đầu tư (sửa đổi), bổ sung thuốc lá điện tử và...11/12/2025 18:29 -
5 nhóm thực phẩm được chuyên gia khuyến nghị giúp cải thiện tâm trạng
Các chuyên gia tâm thần học dinh dưỡng cho biết chế độ ăn ảnh hưởng trực tiếp đến...11/12/2025 18:23 -
Hướng dẫn mới về cấp phép hoạt động cho các điểm trạm y tế sau sắp xếp
Bộ Y tế vừa ban hành hướng dẫn về điều chỉnh giấy phép hoạt động cho các trạm...11/12/2025 18:56 -
4 siêu thực phẩm càng ăn càng sống thọ, khoai lang ở Việt Nam rẻ mà lợi ích lớn
Một số nhóm thực phẩm quen thuộc nếu được sử dụng đều đặn sẽ trở thành “tấm khiên”...11/12/2025 17:01 -
Chạy bộ đúng kỹ thuật: Cách nâng sức bền, bảo vệ khớp và ngừa chấn thương
Chạy bộ là môn thể thao dễ tập nhưng không phải ai cũng chạy đúng cách. Việc duy...11/12/2025 16:02 -
Làm sao tăng chất xơ để phòng bệnh mà không gây đầy hơi?
Chất xơ giúp tiêu hóa khỏe và giảm nguy cơ bệnh mạn tính, nhưng nếu bổ sung quá...11/12/2025 16:50 -
Từ 2026: Người từ 75 tuổi hưởng trợ cấp hưu trí được thanh toán 100% chi phí khám chữa bệnh
Quốc hội thông qua nghị quyết mở rộng quyền lợi BHYT, trong đó người từ 75 tuổi hưởng...11/12/2025 14:05 -
Thay đổi kiến thức, thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của người chăm sóc sau giáo dục sức khỏe tại Bệnh viện Trung ương Thái Nguyên năm 2025
Nghiên cứu: Thay đổi kiến thức, thực hành chăm sóc răng miệng cho trẻ dưới 2 tuổi của...11/12/2025 12:47 -
Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ tiêm an toàn tại các cơ sở khám chữa bệnh trên địa bàn một tỉnh
Nghiên cứu: Các yếu tố ảnh hưởng đến tuân thủ tiêm an toàn tại các cơ sở khám...11/12/2025 12:07 -
Vượt biển trong đêm đưa vợ vào viện, sản phụ thoát nguy cơ vỡ tử cung phút chót
Một sản phụ ở xã đảo Thiềng Liềng (TPHCM) chuyển dạ giữa đêm trong điều kiện thiếu thốn...11/12/2025 11:22 -
Kỹ năng quản lý đau cho người bệnh sau cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt của điều dưỡng tại Bệnh viện Chợ Rẫy và Bệnh viện Bình Dân
Nghiên cứu: Kỹ năng quản lý đau cho người bệnh sau cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt...11/12/2025 11:03 -
Thực trạng kiến thức về phòng tránh biến chứng truyền tĩnh mạch của điều dưỡng tại Bệnh viện 19-8 và các yếu tố ảnh hưởng
Nghiên cứu: Thực trạng kiến thức về phòng tránh biến chứng truyền tĩnh mạch của điều dưỡng tại...11/12/2025 10:49














