Vì sao có điều dưỡng và sự ra đời của Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam
Sự hình thành thuận theo tự nhiên của ngành điều dưỡng thế giới
Việc chăm sóc, nuôi dưỡng bắt đầu từ những bà mẹ. Bà mẹ là người đầu tiên chăm sóc, bảo vệ đứa con từ lúc bé lọt lòng và việc đó được duy trì cho tới ngày nay. Mặt khác, từ thời xa xưa, do kém hiểu biết, con người tin vào thần linh và cho rằng “thần linh là đấng siêu nhiên có quyền uy”, “thượng đế ban sự sống cho muôn loài… Khi có bệnh họ mời pháp sư đến, vừa điều trị, vừa cầu kinh, sợ hãi và tuyệt vọng van xin thần linh cứu rỗi bệnh nhân.
Các giáo đường, nhà thờ được xây dựng để thờ thần thánh và dần dần trở thành những trung tâm chăm sóc và điều trị bệnh nhân. Tại đây có các pháp sư trị bệnh và các tín nữ vừa giúp lễ, vừa phụ chăm sóc bệnh nhân. Từ đó hình thành mối liên kết y khoa, điều dưỡng và tôn giáo.

Năm 60, bà Phoebe (Hy Lạp) đã đến từng gia đình có người ốm đau để chăm sóc. Bà được ngưỡng mộ và suy tôn là người nữ điều dưỡng tại gia đầu tiên của thế giới.
Thế kỷ thứ 4, bà Fabiola (La Mã) đã tự nguyện biến căn nhà sang trọng của mình thành bệnh viện, đón những người nghèo khổ đau ốm về để tự bà chăm sóc nuôi dưỡng.
Thời kỳ viễn chinh ở châu âu, bệnh viện được xây dựng để chăm sóc số lượng lớn những người hành hương bị đau ốm. Cả nam và nữ đều thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ cho tất cả mọi người. Nghề điều dưỡng bắt đầu trở thành nghề được coi trọng.
Đến thế kỷ thứ 16, chế độ nhà tù ở Anh và châu âu bị bãi bỏ. Các tổ chức tôn giáo bị giải tán, dẫn đến sự thiếu hụt trầm trọng người chăm sóc bệnh nhân. Những người phụ nữ phạm tội, bị giam giữ được tuyển chọn làm điều dưỡng thay vì thực hiện án tù, còn những người phụ nữ khác chỉ chăm sóc gia đình mình. Bối cảnh này tạo ra những quan niệm lệch lạc của xã hội đối với điều dưỡng.
Giữa thế kỷ thứ 18 đầu thế kỷ thứ 19, việc cải cách xã hội đã thay đổi vai trò người điều dưỡng, vai trò của người phụ nữ trong xã hội nói chung cũng được cải thiện. Trong thời kỳ này, một phụ nữ người Anh đã được thế giới tôn kính và suy tôn là người sáng lập ra ngành điều dưỡng, đó là bà Florence Nightingale (1820 – 1910).
Bà sinh ra trong một gia đình giàu có ở Anh nên được giáo dục chu đáo, bà biết nhiều ngoại ngữ, đọc nhiều sách triết học, tôn giáo, chính trị. Ngay từ nhỏ, bà đã thể hiện thiên tính và hoài bão được giúp đỡ người nghèo khổ. Bà đã vượt qua sự phản kháng của gia đình để vào học và làm việc tại bệnh viện Kaiserswerth (Đức) năm 1847.
Sau đó bà học thêm ở Paris (Pháp) vào năm 1853. Những năm 1854-1855, chiến tranh Crimea nổ ra, bà cùng 38 phụ nữ Anh khác được phái sang Thổ Nhĩ Kỳ để phục vụ các thương binh của quân đội Hoàng gia Anh. Tại đây bà đã đưa ra lý thuyết về khoa học vệ sinh trong các cơ sở y tế và sau hai năm bà đã làm giảm tỷ lệ chết của thương binh do nhiễm trùng từ 42% xuống còn 2%.
Đêm đêm, Florence một mình cầm ngọn đèn dầu đi tua, chăm sóc thương binh, đã để lại hình tượng người phụ nữ với cây đèn trong trí nhớ những người thương binh hồi đó. Chiến tranh chưa kết thúc, Florence đã phải trở lại nước Anh. Cơn “sốt Crimea” và sự căng thẳng của những ngày ở mặt trận đã làm cho bà mất khả năng làm việc. Bà được dân chúng và những người lính Anh tặng món quà 50.000 bảng Anh để chăm sóc sức khoẻ. Vì sức khoẻ không cho phép tiếp tục làm việc ở bệnh viện, Florence đã lập ra hội đồng quản lý ngân sách 50.000 bảng Anh vào năm 1860.
Trường điều dưỡng Nightingale cùng với chương trình đào tạo 1 năm đã đặt nền tảng cho hệ thống đào tạo điều dưỡng không chỉ ở nước Anh mà còn ở nhiều nước trên thế giới.
Để tưởng nhớ công lao của bà và khẳng định quyết tâm tiếp tục sự nghiệp mà Florence đã dày công xây dựng. Hội đồng điều dưỡng thế giới đã quyết định lấy ngày 12-5 hàng năm là ngày sinh của Florence Nightingale, làm ngày điều dưỡng quốc tế. Bà đã trở thành người mẹ tinh thần của ngành điều dưỡng thế giới.
Hiện nay ngành điều dưỡng của thế giới đã được xếp là một ngành nghề riêng biệt, ngang hàng với các ngành nghề khác. Có nhiều trường đào tạo điều dưỡng với nhiều trình độ điều dưỡng khác nhau: trung học, đại học, sau đại học. Nhiều cán bộ điều dưỡng đã có bằng thạc sĩ, tiến sĩ và nhiều công trình nghiên cứu khoa học điều dưỡng nhằm nâng cao phát triển thực hành điều dưỡng.
Từ đó thế giới đã sản sinh ra nhiều nhân vật có đóng góp quan trọng cho sự phát triển ngành điều dưỡng trên thế giới:
Trong thế kỷ 19:
Clara Barton: tình nguyện chăm sóc người bị thương và nuôi dưỡng quân nhân liên bang Mỹ trong cuộc nội chiến, phục vụ với tư cách là giám sát điều dưỡng cho quân đội. Điều hành các bệnh viện và các điều dưỡng, thành lập hội chữ thập đỏ tại Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào những năm 1882.
Dorothea Dix: người giám sát các nữ điều dưỡng quân y trong cuộc nội chiến, có toàn quyền và trách nhiệm tuyển mộ và huấn luyện cho tổ chức điều dưỡng quân y. Bà là người đi tiên phong cải cách trong việc điều trị người bệnh tâm thần.
Mary Ann Bickerdyke: tổ chức các bữa ăn, giặt là quần áo, dịch vụ cấp cứu, và là giám sát viên điều dưỡng trong cuộc nội chiến.
Louise schuyler: điều dưỡng trong cuộc nội chiến. Bà đã trở về New York và lập ra hội cứu tế từ thiện, tổ chức này đã làm việc để cải tiến việc chăm sóc người bệnh tại Bệnh viện Bellevue. Bà đã đề nghị cần có các tiêu chuẩn cho việc đào tạo điều dưỡng.
Linda Richards: một điều dưỡng được đào tạo lần đầu tiên tại Hoa Kỳ, một nữ sinh tốt nghiệp từ bệnh viện New England dành cho phụ nữ và trẻ em ở thành phố Boston, thuộc tiểu bang Massachusette vào năm 1873. Bà đã trở thành giám sát điều dưỡng ca đêm tại Bệnh viện Bellevue vào năm 1874 và đã bắt đầu công việc lưu trữ hồ sơ và viết các y lệnh chăm sóc.
Jane Addams: cung cấp các dịch vụ điều dưỡng xã hội tại các khu dân cư, người lãnh đạo cho quyền của phụ nữ, người được nhận giải thưởng Nobel hòa bình 1931.
Lillian Wald: tốt nghiệp từ bệnh viện New England dành cho phụ nữ và trẻ em vào năm 1879 và là điều dưỡng da đen đầu tiên của Hoa Kỳ.
Harisst Tubmasn: một điều dưỡng, một người theo chủ nghĩa bãi nô lệ. Bà hoạt động trong phong trào xe điện ngầm trước khi tham gia đội quân liên bang trong cuộc nội chiến.
Mary Agnes Snively: Hiệu trưởng trường điều dưỡng tại bệnh viện Đa khoa Toronto, và là một trong những người sáng lập hội điều dưỡng Canada.
Sojourner Truth: một người điều dưỡng không chỉ chăm sóc thương binh trong cuộc nội chiến, mà còn tham gia vào phong trào hoạt động của phụ nữ. – Isabel HamptonRobb: người lãnh đạo điều dưỡng và đào tạo điều dưỡng, bà đã tổ chức trường điều dưỡng tại bệnh viện John Hopkins, bà đã đề xướng những quy định kể cả giới hạn giờ làm việc trong ngày, viết sách giáo khoa để sinh viên điều dưỡng học tập. Bà là chủ tịch đầu tiên của các điều dưỡng liên kết với các cựu sinh viên điều dưỡng Mỹ và Canada (mà sau này trở thành hội điều dưỡng Mỹ).
Đến thế kỷ 20:
Mary Adelaid Nutting: một thành viên của phân khoa ở đại học Columbia, bà là một giáo sư điều dưỡng đầu tiên trên thế giới, cùng với Lavinia Dock, xuất bản quyển sách 4 tập về lịch sử điều dưỡng.
Ellizabeth Smellie: một thành viên của một nhóm chăm sóc sức khoẻ cộng động, đã tổ chức quân đoàn phụ nữ Canada trong suốt chiến tranh thế giới lần thứ 2.
Lavinia Dock: một người lãnh đạo điều dưỡng và là một nhà hoạt động cho quyền của phụ nữ, đã đóng góp cho việc sửa đổi hiến pháp, đưa đến quyền bỏ phiếu cho phụ nữ.
Mary Breck Enridge: thành lập trường điều dưỡng Frontier và là một trong những trường nữ điều dưỡng đầu tiên ở Mỹ

Ngành điều dưỡng Việt Nam bắt đầu “thai nghén” như một lẽ tất yếu.
Cũng như thế giới, từ xa xưa các bà mẹ Việt Nam đã chăm sóc, nuôi dưỡng con cái và gia đình mình. Bên cạnh những kinh nghiệm chăm sóc của gia đình, các bà đã được truyền lại kinh nghiệm dân gian của các lương y trong việc chăm sóc người bệnh. Lịch sử y học của dân tộc ghi rõ phương pháp dưỡng sinh, đã được áp dụng trong việc điều trị và chăm sóc người bệnh. Hai danh y nổi tiếng thời xưa của dân tộc ta là Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác và Tuệ Tĩnh đã sử dụng phép dưỡng sinh để trị bệnh rất có hiệu quả.
Thời kỳ Pháp thuộc, người Pháp đã xây nhiều bệnh viện. Nên trước năm 1900, họ đã ban hành chế độ học việc cho những người muốn làm việc ở bệnh viện. Việc đào tạo không chính quy mà chỉ là “cầm tay chỉ việc”. Họ là những người giúp việc thạo kỹ thuật, vững tay nghề và chỉ phụ việc cho các bác sĩ người Pháp mà thôi.
Năm 1901, mở lớp nam y tá đầu tiên tại Bệnh viện Chợ Quán nơi điều trị bệnh tâm thần và hủi. Ngày 20/12/1906, toàn quyền Đông Dương ban hành nghị định thành lập ngạch nhân viên điều dưỡng bản xứ. Năm 1910, lớp học rời về Bệnh viện Chợ Rẫy để đào tạo y tá đa khoa. Ngày 01/12/1912, công sứ Nam Kỳ ra quyết định mở lớp nhưng mãi đến ngày 18/06/1923 mới mở trường điều dưỡng bản xứ.
Do chính sách của thực dân Pháp không tôn trọng người bản xứ và coi y tá chỉ là người giúp việc nên về lương bổng chỉ được xếp ở ngạch hạ đẳng. Năm 1937, Hội Chữ thập đỏ Pháp tuyển sinh lớp nữ y tá đầu tiên ở Việt Nam lớp học tại 38 Tú Xương Năm 1924. Hội y tá ái hữu và Nữ hộ sinh Đông Dương thành lập, người sáng lập là cụ Lâm Quang Thiêm, nguyên giám đốc Bệnh viện Chợ Quán. Chánh hội trưởng là ông Nguyễn Văn Mân. Hội đã đấu tranh với chính quyền thực dân Pháp yêu cầu đối xử công bằng với y tá bản xứ, và sau đó cho y tá được thi chuyển ngạch trung đẳng.
Sau cách mạng tháng 8 năm 1945, nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa vừa mới thành lập đã phải bước ngay vào cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Lớp y tá đầu tiên được đào tạo 6 tháng do GS. Đỗ Xuân Hợp làm hiệu trưởng được tổ chức tại quân khu X (Việt Bắc). Những y tá vào học lớp này được tuyển chọn tương đối kỹ lưỡng. Sau đó liên khu III cũng mở lớp đào tạo y tá.
Năm 1950, ta mở nhiều chiến dịch, nhu cầu chăm sóc thương bệnh binh tăng mạnh. Cần đào tạo y tá cấp tốc (3 tháng) để cung cấp nhiều y tá cho kháng chiến đáp ứng công tác quản lý chăm sóc và phục vụ người bệnh. Trong những năm 1950, Cục Quân y cũng đã mở một số lớp đào tạo y tá trưởng, nhưng chương trình chưa được hoàn thiện. Mặt khác, kháng chiến rất gian khổ, ta có ít máy móc y tế, thuốc men cũng rất hạn chế, nên việc điều trị cho bệnh nhân chủ yếu dựa vào chăm sóc và chính nhờ điều dưỡng mà nhiều thương bệnh binh bị chấn thương, đoạn (cụt) chi do những vết thương chiến tranh, sốt rét ác tính đã qua khỏi.
Năm 1954, cuộc kháng chiến chống Pháp thắng lợi. Đất nước ta bị chia làm 2 miền. Miền Bắc bắt tay vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục chịu sự xâm lược của đế quốc Mỹ.
Tại miền Nam: Năm 1956 có trường Cán sự điều dưỡng Sài gòn, đào tạo Cán sự điều dưỡng 3 năm. Năm 1968 do thiếu điều dưỡng trầm trọng nên đã mở thêm ngạch điều dưỡng sơ học 12 tháng chính quy gọi y Tá viên điều dưỡng tại các trường điều dưỡng. Hội Điều dưỡng Việt Nam tại miền Nam được thành lập, Hội xuất bản nội san điều dưỡng. Năm 1973 mở lớp điều dưỡng y tế công cộng 3 năm tại Viện Quốc gia y tế công cộng.
Ở miền Bắc: Năm 1954, Bộ Y tế đã xây dựng chương trình đào tạo y tá sơ cấp hoàn chỉnh để bổ túc cho số y tá học cấp tốc trong chiến tranh. Năm 1968, Bộ Y tế xây dựng tiếp chương trình đào tạo y tá trung cấp, tuyển sinh học hết cấp 2 (hết lớp 7) với thời gian đào tạo y tá trung học 2 năm 6 tháng. Khóa đầu tiên đào tạo của lớp y tá được tổ chức tại Bệnh viện E trung ương, Bệnh viện Việt Đức (đào tạo chuyên khoa), Bệnh viện Bạch Mai và sau đó được xây dựng thành trường Trung học Y tế Bạch Mai trực thuộc Bộ Y tế. Đồng thời Bộ Y tế cũng gửi giảng viên của hệ này đi tập huấn ở Liên Xô, Ba Lan, CHDC Đức từ năm 1975, tiêu chuẩn tuyển chọn vào y tá trung học cần trình độ văn hóa cao hơn (tốt nghiệp hết cấp 3), học sinh được tuyển chọn bắt buộc phải tốt nghiệp trung học phổ thông hay bổ túc văn hóa và chương trình đào tạo cũng hoàn thiện hơn.
Việc đào tạo điều dưỡng trưởng cũng đã được quan tâm. Ngay từ năm 1960, một số bệnh viện và trường trung học y tế trung ương đã mở lớp đào tạo y tá trưởng như lớp Trung học y tế Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện E Hà Nội. Tuy nhiên, chương trình và tài liệu giảng dạy chưa được hoàn thiện. Ngày 21/11/1963, Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định về chức vụ y tá trưởng ở các cơ sở điều trị: bệnh viện, Viện điều dưỡng.
Năm 1975, kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, đất nước được thống nhất. Bộ Y tế đã thống nhất chỉ đạo công tác chăm sóc và điều trị bệnh nhân ở cả hai miền. Từ đó, chương trình đào tạo điều dưỡng được thống nhất chung là đào tạo Y tá trung học, học 2 năm 6 tháng.
Năm 1982, Bộ Y tế ban hành chức danh y tá trưởng bệnh viện và y tá trưởng khoa.
Năm 1985, Bộ Y tế thành lập tổ nghiên cứu y tá và một số bệnh viện đã xây dựng phòng điều dưỡng, thí điểm tách ra khỏi phòng y vụ tại bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện Đa khoa Uông Bí.
Ngày 14 tháng 7 năm 1990, Bộ Y tế ban hành quyết định số 570/BYT-QĐ thành lập phòng Y tá điều dưỡng trong các bệnh viện có trên 150 giường bệnh. Ngày 14 tháng 3 năm 1992 Bộ trưởng Bộ Y tế ra quyết định thành lập phòng y tá trong Vụ Điều trị của Bộ Y tế và đến năm 1996, Bộ Y tế chính thức bổ nhiệm chức vụ trưởng phòng điều dưỡng đầu tiên.
Năm 1985 ở Đại học Y Hà Nội, tại Vụ Điều trị, Phòng điều dưỡng Vụ Điều trị đã có đóng góp quan trọng vào việc phát triển hệ thống điều dưỡng các cấp. Cũng trong năm này Bộ Y tế được Bộ Đại học và Trung học chuyên nghiệp (Bộ Giáo dục và Đào tạo) đồng ý tổ chức khóa đào tạo đại học Cử nhân điều dưỡng tại chức đầu tiên tại Trường Đại học Y Hà Nội, năm 1986 tại Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh và đến năm 1996 tổ chức khóa đào tạo Đại học Cử nhân điều dưỡng chính quy.
Năm 1999 Bộ Y tế chính thức ban hành chức vụ điều dưỡng trưởng tại Sở Y tế. Việc đào tạo điều dưỡng cao đẳng bắt đầu từ năm 1993 và hiện nay Bộ Y tế đang từng bước nâng cấp các trường trung cấp y lên thành trường cao đẳng y tế. Từ năm 2003 chương trình đào tạo điều dưỡng trung cấp rút ngắn từ 2 năm 6 tháng, xuống còn 2 năm.
Năm 2006, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh được Bộ Y tế và Bộ Giáo dục và Đào tạo cho phép mở đào tạo thạc sĩ điều dưỡng đầu tiên của Việt nam, chương trình được ThS. ĐD Trần Thị Thuận và nhóm Hội điều dưỡng Nhịp cầu thân hữu biên soạn.
Riêng về đào tạo điều dưỡng trưởng, liên tục từ năm 1982 đến nay nhiều lớp điều dưỡng trưởng đã được tổ chức tại các trường Trung học Kỹ thuật Y tế Trung ương I (nay là Đại học Kỹ thuật y tế Hải Dương), Trung học Kỹ thuật Y tế Trung ương III (nay là Khoa điều dưỡng kỹ thuật y học Đại học Y Dược thành phố Hồ Chí Minh) lớp THYT Bạch Mai, Cao đẳng y tế Nam Định (nay là Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định).
Đến 2005, chương trình Quản lý điều dưỡng được Bộ Y tế chỉnh lý thành chươngtrình đào tạo điều dưỡng trưởng dùng đào tạo chung cho các điều dưỡng trưởng khoa, điều dưỡng trưởng bệnh viện toàn quốc.

Sự ra đời và phát triển của Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam
Từ năm 1986 đến 1989 lần lượt các Hội Điều dưỡng ra đời trên nhiều tỉnh thành. Đầu tiên là khu vực thành phố Hồ Chí Minh mở đại hội thành lập Hội Điều dưỡng thành phố Hồ Chí Minh. Tiếp đến Hội Điều dưỡng thủ đô Hà Nội, Hội Điều dưỡng tỉnh Quảng Ninh được thành lập, sau đó lần lượt một số tỉnh thành khác cũng thành lập Hội Điều dưỡng. Từ đó thôi thúc sự ra đời của Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam.
Ngày 26/10/1990, Hội Y tá – Điều dưỡng Việt Nam mở đại hội lần thứ nhất tại hội trường Ba Đình lịch sử theo Quyết định 375 – CT của Chính phủ. Đại hội đã bầu ra BCH gồm 31 ủy viên ở cả hai miền, nhiệm kỳ 3 năm (1990 – 1993). Bà Vi Thị Nguyệt Hồ được bầu làm chủ tịch, ba phó chủ tịch là: bà Trịnh Thị Loan, bà Nguyễn Thị Niên, ông Nguyễn Hoa. Tổng thư ký là ông Phạm Đức Mục.

Ngày 26 tháng 3 năm 1993, Đại hội đại biểu Y tá điều dưỡng toàn quốc lần thứ 2 (nhiệm kỳ 1993 – 1997) được tổ chức tại Bộ Y tế và Ban chấp hành mới gồm 45 ủy viên, chủ tịch là bà Vi Thị Nguyệt Hồ, ba phó chủ tịch là: ông Nguyễn Hoa, bà Trịnh Thị Loan, ông Phạm Đức Mục (kiêm tổng thư ký).
Năm 1997, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 3 (nhiệm kỳ 1997 – 2001) được tổ chức tại hội trường Thống Nhất – thành phố Hồ Chí Minh. Bà Vi Thị Nguyệt Hồ tiếp tục được bầu làm chủ tịch, ba phó chủ tịch là bà Trịnh Thị Loan phụ trách các tỉnh phía Nam, ông Nguyễn Hoa phụ trách các tỉnh miền Trung và ông Phạm Đức Mục phụ trách các tỉnh phía Bắc, trong nhiệm kỳ này ban tổ chức cán bộ của chính phủ (Bộ Nội vụ sau này) đã đồng ý đổi tên Hội Y tá – Điều dưỡng Việt Nam thành Hội Điều dưỡng Việt Nam.
Năm 2002, đại hội đại biểu toàn quốc, Hội Điều dưỡng Việt Nam được tổ chức nhiệm kỳ 4 tại Hà Nội. Trong nhiệm kỳ này Hội Điều dưỡng Việt Nam đã có nhiều đóng góp xây dựng các chính sách và tiêu chuẩn thực hành điều dưỡng, nhà nước đã đổi tên ngành Y tá thành ngành Điều dưỡng.
Hiệp hội bước vào thời kỳ phát triển mạnh mẽ hơn, từng bước khẳng định vai trò trong hệ thống y tế quốc gia, đồng thời mở rộng hợp tác khu vực và quốc tế.
Giai đoạn củng cố và chuyển mình (2002–2007)
Năm 2002, Hiệp hội tổ chức Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV. Đây là dấu mốc quan trọng, bởi sau hơn 10 năm hoạt động, Hiệp hội đã có đủ nền tảng để mở rộng mạng lưới, nâng cao tính chuyên nghiệp. Đại hội đề ra nhiệm vụ tập trung vào chuẩn hóa đào tạo, tăng cường bồi dưỡng chuyên môn, phát triển hội viên tại các tỉnh thành và xây dựng hình ảnh điều dưỡng như một lực lượng nòng cốt trong chăm sóc sức khỏe nhân dân.
Trong giai đoạn 2003–2007, Hiệp hội phối hợp với Bộ Y tế, các trường đại học và tổ chức quốc tế để tổ chức hàng loạt khóa tập huấn, hội thảo khoa học, đặc biệt chú trọng vào kỹ năng lâm sàng, chăm sóc toàn diện và giao tiếp với người bệnh. Nhiều chi hội địa phương được thành lập, đưa Hiệp hội trở thành cầu nối giữa điều dưỡng ở tuyến trung ương và cơ sở.
Hoàn thiện pháp lý, mở rộng ảnh hưởng (2008–2011)
Năm 2008, Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 627/QĐ-BNV phê duyệt Điều lệ Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam. Sự kiện này mang ý nghĩa pháp lý to lớn, giúp hoạt động của Hiệp hội có cơ sở vững chắc hơn, thuận lợi trong việc tổ chức nhân sự, thu hút hội viên và triển khai các dự án chuyên môn.
Trong giai đoạn này, Hiệp hội chú trọng xây dựng chuẩn năng lực điều dưỡng, đóng góp ý kiến cho Bộ Y tế trong việc chuẩn hóa khung chương trình đào tạo và tiêu chuẩn nghề nghiệp. Đồng thời, Hiệp hội bắt đầu mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tham gia các diễn đàn điều dưỡng trong khu vực châu Á – Thái Bình Dương, học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Úc và các nước ASEAN.
Tăng cường vai trò tư vấn chính sách và hợp tác quốc tế (2012–2019)
Sau những năm củng cố tổ chức, từ 2012 dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Ths. Phạm Đức Mục Hiệp hội bước vào giai đoạn mới với nhiều hoạt động có tính chất chiến lược. Các thế hệ lãnh đạo kế tiếp, kế thừa tâm huyết của người đi trước, đã đưa Hiệp hội phát triển theo hướng hội nhập.
Trọng tâm giai đoạn này là:
Tham gia xây dựng chính sách: Hiệp hội tư vấn cho Bộ Y tế về chuẩn năng lực điều dưỡng, quản lý nhân lực, chuẩn đạo đức nghề nghiệp.
Đào tạo liên tục: Nhiều hội thảo, khóa tập huấn quy mô quốc gia được tổ chức, chú trọng vào chăm sóc toàn diện, an toàn người bệnh, kiểm soát nhiễm khuẩn.
Hợp tác quốc tế: Hiệp hội trở thành thành viên tích cực của các tổ chức điều dưỡng khu vực, đồng thời thiết lập quan hệ hợp tác với JICA (Nhật Bản), Hội Điều dưỡng Mỹ, Hội Điều dưỡng Hàn Quốc... nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và thực hành điều dưỡng.
Đặc biệt, Hiệp hội phát triển mạnh về số lượng hội viên. Đến cuối thập niên 2010, mạng lưới hội viên đã phủ khắp 63 tỉnh, thành phố với hàng trăm nghìn điều dưỡng tham gia, biến Hiệp hội thành lực lượng nòng cốt trong đào tạo và phát triển nghề nghiệp.
Đổi mới hoạt động trong bối cảnh dịch bệnh (2020–2021)
Khi đại dịch COVID-19 bùng phát, lực lượng điều dưỡng trở thành tuyến đầu chống dịch. Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam không chỉ đồng hành về mặt chuyên môn mà còn tổ chức nhiều chương trình hỗ trợ tinh thần cho hội viên.
Các khóa tập huấn, hội nghị khoa học chuyển sang hình thức trực tuyến, đảm bảo việc cập nhật kiến thức không bị gián đoạn.
Hiệp hội tích cực truyền thông, lan tỏa hình ảnh những “chiến sĩ áo trắng” kiên cường trên tuyến đầu, qua đó nâng cao vị thế xã hội của nghề điều dưỡng. Các hoạt động tôn vinh, chăm sóc đời sống hội viên được triển khai, nhất là cho lực lượng điều dưỡng tham gia chống dịch ở các tỉnh thành phía Nam.
Đây là giai đoạn thể hiện rõ vai trò đồng hành, bảo vệ quyền lợi hội viên trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn.
Đại hội khóa VIII – Định hướng phát triển 2022–2027
Tháng 10 năm 2022, Hiệp hội tổ chức Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. Đại hội xác định mục tiêu lớn cho nhiệm kỳ mới:

Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực điều dưỡng, đáp ứng nhu cầu hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh nghiên cứu khoa học và áp dụng thực hành dựa trên bằng chứng. Xây dựng mạng lưới chi hội vững mạnh, thu hút đông đảo hội viên tham gia.Tiếp tục là tiếng nói đại diện cho điều dưỡng trong quá trình hoạch định chính sách y tế.
Đại hội đã bầu Ths. Phạm Đức Mục tiếp tực giữ cương vị Chủ tịch và Ban Chấp hành mới với tinh thần kế thừa và đổi mới, khẳng định quyết tâm đưa nghề điều dưỡng Việt Nam tiệm cận chuẩn mực quốc tế.
Hoạt động hiện nay (2023–2025)
Trong những năm gần đây, Hiệp hội đã tổ chức nhiều sự kiện quan trọng:
Năm 2023: Kỷ niệm 33 năm thành lập, kết hợp với hội thảo khoa học lớn, quy tụ hàng nghìn hội viên tham gia trực tiếp và trực tuyến.
Ngày Quốc tế Điều dưỡng (12/5 hằng năm): Hiệp hội luôn tổ chức lễ kỷ niệm, tôn vinh và khích lệ tinh thần của điều dưỡng viên trên cả nước.
Đào tạo & hội thảo chuyên môn: Các chủ đề như hồi sức cấp cứu, an toàn truyền dịch, quản lý nhiễm khuẩn, chăm sóc bệnh nhân mạn tính... được triển khai thường xuyên.
Tham gia xây dựng chính sách: Hiệp hội tiếp tục đồng hành cùng Bộ Y tế trong các đề án nhân lực, đặc biệt trong bối cảnh già hóa dân số và nhu cầu chăm sóc dài hạn ngày càng tăng.
Từ năm 1990 đến nay, Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam đã trải qua hành trình hơn ba thập kỷ đầy nỗ lực. Từ một tổ chức nghề nghiệp còn non trẻ, Hiệp hội đã khẳng định vị thế là mái nhà chung của hàng trăm nghìn điều dưỡng, hộ sinh, kỹ thuật viên y tế. Hiệp hội không chỉ góp phần nâng cao trình độ chuyên môn, mà còn trở thành tiếng nói quan trọng trong hoạch định chính sách và thúc đẩy sự phát triển nghề điều dưỡng ở Việt Nam theo hướng chuyên nghiệp, hiện đại, hội nhập quốc tế.
Chặng đường sắp tới, với những thách thức về nhân lực, dịch bệnh mới nổi và yêu cầu hội nhập, Hiệp hội sẽ tiếp tục đóng vai trò trung tâm trong việc phát triển đội ngũ điều dưỡng – lực lượng ngày càng quan trọng trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng.
Tin mới
-
Ở tuổi 55, khi nhiều người đã tìm được chỗ dựa bình yên nơi gia đình, tôi vẫn...10/12/2025 11:14
-
Quảng cáo thuốc, thực phẩm bảo vệ sức khỏe trên mạng xã hội: Vi phạm bị xử lý ra sao?
Theo luật sư, cá nhân không có chuyên môn, không được cấp phép mà vẫn livestream tư vấn,...10/12/2025 11:53 -
Gương sáng điều dưỡng
Trong suốt hành trình xây dựng và phát triển của ngành Y tế Việt Nam, đội ngũ điều...10/12/2025 11:08 -
Tăng lương, phụ cấp là cú hích tạo động lực cho nhân viên y tế tuyến đầu
Trong bối cảnh toàn ngành Y tế đang nỗ lực đổi mới để đáp ứng yêu cầu chăm...10/12/2025 10:08 -
Bác sĩ Việt Nam lần đầu nối thành công ngón tay đứt rời sau 25 giờ
Bệnh viện Việt Đức lần đầu vi phẫu nối thành công ngón tay đứt rời sau 25 giờ...10/12/2025 10:54 -
Vì sao có điều dưỡng và sự ra đời của Hiệp hội Điều dưỡng Việt Nam
Trong dòng chảy lịch sử của y học thế giới cũng như y học Việt Nam, sự ra...10/12/2025 10:28 -
Bệnh nhân ghép phổi đầu tiên tại phía Nam xuất viện, mở ra bước tiến mới cho y học Việt Nam
Sau hơn một tháng ghép phổi tại Bệnh viện Chợ Rẫy, bệnh nhân đầu tiên của khu vực...10/12/2025 09:16 -
Bốn trụ cột giúp Việt Nam kiểm soát chủ động dịch sốt xuất huyết
Sốt xuất huyết gia tăng quanh năm, gây áp lực lớn lên hệ thống y tế. Các chuyên...10/12/2025 09:01 -
Luật Phòng bệnh, Luật Dân số và 33 luật, nghị quyết khác sắp được biểu quyết thông qua
Trong ngày 10/12, Quốc hội sẽ thực hiện quy trình để biểu quyết thông qua 30 dự thảo...10/12/2025 08:17 -
Đổi mới hệ thống y tế: Người dân hưởng lợi từ tuyến cơ sở đến trung ương
Từ hiện đại hóa y tế cơ sở đến Nghị quyết 72, hệ thống y tế Việt Nam...10/12/2025 08:31 -
VPBank tài trợ 40 tỷ đồng giúp Bệnh viện Bạch Mai nâng cấp dịch vụ và hướng tới chuẩn quốc tế
VPBank dành 40 tỷ đồng hỗ trợ Bệnh viện Bạch Mai cải thiện cơ sở vật chất và...10/12/2025 08:53 -
Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên: Các đơn vị phải nghiêm túc, trách nhiệm, triển khai đúng tiến độ nhiệm vụ do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Bộ Y tế giao
Sáng 09/12/2025, tại trụ sở Bộ Y tế, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên chủ trì...10/12/2025 08:22 -
Tác động của dinh dưỡng đến sức khỏe và những dấu hiệu cơ thể thiếu chất
Dinh dưỡng quyết định sức khỏe hiện tại và tương lai. Ăn uống khoa học giúp giảm nguy...09/12/2025 19:07 -
3 loại thực vật nên ăn hằng ngày để hỗ trợ tim mạch khỏe mạnh
Hạt lanh, đậu xanh và củ dền là ba thực vật giàu dưỡng chất giúp giãn mạch, ổn...09/12/2025 19:03














