Cùng dự có Bí thư Huyện uỷ Kỳ Anh Hồ Huy Thành; Phó Bí thư thường trực, chủ
tịch HĐND huyện Kỳ Anh Trần Thành Nam; Phó Bí thư Huyện uỷ, Chủ tịch UBND huyện
Kỳ Anh Nguyễn Quang Linh; đại diện các phòng, ban huyện Kỳ Anh, lãnh đạo các xã,
đông đảo con cháu Nguyễn tộc đại tôn và bà con nhân dân.
Phát biểu tại buổi lễ, đồng
chí Võ Tá Cương - HUV, Phó Chủ tịch UBND huyện Kỳ Anh mong muốn dòng họ Nguyễn tộc đại
tôn tiếp tục gìn giữ trông coi, tôn tạo, phát huy các giá trị truyền thống tốt
đẹp của dòng họ, động viên các thành viên trong dòng họ thực hiện tốt các chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, tích cực học tập, lao động
sản xuất, phát triển kinh tế góp phần xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp.
Phó Giám đốc Sở Văn hoá Thể thao và Du lịch Hà Tĩnh Trần Xuân Lương (ngoài cùng bìa phải) trao bằng xếp hạng Di tích lịch sử - văn hoá cấp tỉnh cho đại diện dòng họ.
Dòng họ Nguyễn xã Kỳ Phú, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh có nguồn gốc từ tỉnh
Thanh Hoá, đến định cư tại làng Phú Thượng vào giữa thế kỷ thứ 17, Thuỷ tổ tên
là Nguyễn Cao, có 4 người con dần dần phát triển thành dòng họ khoa bảng. Những
cống hiến của các bậc tiền bối cũng như các thế hệ con cháu qua các thời kỳ lịch
sử đã được các triều đại ghi nhận bằng sắc phong, phần thưởng cao quý.
Từ đời thứ 3, cụ Nguyễn Phi tham gia nghĩa quân Triều Đình giữ chức Quản cơ và hi sinh trong cuộc nội chiến Trịnh Nguyễn, cụ được con cháu truy tôn là phật tổ và lập miếu thờ. Cụ Nguyễn Như Quyền đỗ sinh đồ, được bổ làm quan, chức huyện thừa.
Đời thứ 4 có cụ Nguyễn Lang Bá là sứ Lang thần sách vệ tri bạ. Đời thứ 5 là
các cụ Nguyễn Thao, Nguyễn Cấm, Nguyễn Ý là những người có tài thao lược, tinh
thông kinh sử, cụ Nguyễn Cấm chỉ huy đội quân tinh nhuệ của Triều đình được
phong là Thần sách quân chung dinh, hi sinh ngoài chiến trận. Cụ Nguyễn Văn
Thao, cụ Nguyễn Ý là bậc văn nhân trong huyện lúc bấy giờ.
Nhà thờ Nguyễn tộc Đại tôn là nơi tôn thờ các bậc tiên tổ của Dòng họ và tưởng nhớ các bậc tiền nhân đã có công bảo quốc, hộ dân. Nhiều người có công lớn làm rạng danh trang sử của quê hương, dòng họ, tiêu biểu là hai nhà khoa bảng Nguyễn Văn Nhu, Nguyễn Trọng Thường.
Khi khởi thảo gia phả, cụ Nguyễn Thao đời thứ 5 đã để lại di nguyện có một nhà thờ để thờ phụng tổ tiên, nhưng phải đến năm 1913 dòng họ mới dựng được nhà thờ bằng tranh, tre, nứa lá trên đất hương hoả bên cạnh miếu thần tổ Nguyễn Phi.
Đến năm 1933 nhà thờ được xây dựng lại bằng gạch, mái lợp ngói, ngoài sự
đóng góp của con cháu còn có sự công đức lớn của ông Nguyễn Lương Tịch (Hai Tịch)
đời thứ 7. Qua bao thời gian, nắng mưa, bão tố nhà thờ bị xuống cấp, năm 2021
con cháu cung tay trùng tu tôn tạo,với kiến trúc dựa trên nguyên bản cũ.
Căn cứ vào các tài liệu và những văn bằng hán nôm được dòng họ lưu giữ, với những giá trị lịch sử văn hoá, ngày 15/8/2024 nhà thờ Nguyễn Văn Nhu, Nguyễn Trọng Thường được UBND tỉnh Hà Tĩnh xếp hạng di tích lịch sử văn hoá cấp tỉnh.
Cụ Nguyễn Văn Nhu đời thứ 6, cụ Nguyễn Trọng Thường đời thứ 7 (con của cụ Nguyễn Văn Nhu) đều đỗ đạt cao và làm quan dưới triều Nguyễn, trải qua các chức vụ Huấn đạo, Điển tịch Viện Hàn lâm, Biên tu Quốc sử quán, Tri huyện, Tri phủ có nhiều công lao, được Vua ban nhiều sắc phong, ban thưởng. Kế thừa truyền thống cương trực, đức độ.
Tuy làm quan nhưng các cụ sống chan hoà, gần gũi những người dân nơi quê
hương, bản quán và những nơi phụng mệnh Triều đình để làm việc. Sự nghiệp khoa
bảng và quan trường của hai cụ được các tài liệu Quốc sử, Phương sử ghi chép cụ
thể: Sách Quốc triều hương khoa lục do quan đại thần Cao Xuân Dục biên soạn dưới
triều Nguyễn nhà xuất bản TPHCM năm 1993; sách các nhà khoa bảng Hà Tĩnh do
Thái Kim Đỉnh biên soạn, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Tĩnh xuất bản năm 2004 và
sách từ điển Hà Tĩnh do nhà sử học Bùi Thiết biên soạn, Sở Văn hoá Thông tin Hà
Tĩnh xuất bản năm 2000 ghi: Nguyễn Văn Nhu người xã Kỳ Nam, huyện Kỳ Anh, tỉnh
Hà Tĩnh làm Tri huyện Sung sơn phòng sứ Hà Tĩnh; Nguyễn Trọng Thường người xã
Phú Thượng, huyện Kỳ Anh hậu bổ sau làm Tri huyện Vĩnh Linh.
Theo tài liệu của dòng họ, cụ Nguyễn Văn Nhu sinh năm 1825 (Ất Dậu) tại làng Phú Thượng, xã Kỳ Nam, tổng Đậu Chữ (nay là xã Kỳ Phú, huyện Kỳ Anh, Hà Tĩnh), là hậu duệ đời thứ VI của cụ Nguyễn Cao. Với phẩm chất hiếu học được hun đúc từ gia đình, họ tộc và truyền thống quê hương, cụ Nguyễn Văn Nhu đã tu luyện theo con đường khoa cử để phụng sự Tổ quốc thông qua phục vụ triều đại đương thời, được ghi nhận qua các mốc son trong sự nghiệp của Cụ
Năm 1848 thi đỗ Cử nhân xếp thứ 10 Trường thi Nghệ An đến năm 1851 dự thi Hội và đỗ vào học Trường Quốc tử giám.
Từ năm 1861 - 1873 được bổ làm quan với các chức vụ: Điển tịch Viện Hàn lâm, Huấn đạo ở Hà Đông, Biên tu Viện Hàn lâm, Tri huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái; Tri huyện Thanh Sơn, Đồng Tri phủ, Tri phủ Gia Hưng, tỉnh Phú Thọ.
Năm 1874 được thăng chức Đại lý tự khanh, trên đường từ Phú Thọ về kinh thành Huế nhậm chức do trên địa bàn Hà Tĩnh có biến nên triều đình sung Cụ làm Đốc biện Sơn phòng Hà Tĩnh.
Cuộc đời và sự nghiệp của cụ Nguyễn Văn Nhu có nhiều thăng trầm trong giai đoạn lịch sử đầy biến động. Nhưng với trí tuệ và bản lĩnh của một nhà nho chân chính, cụ đã vượt qua mọi biến cố, góp phần làm rạng danh quê hương, dòng tộc và để lại tấm gương sáng về tinh thần hiếu học, nhân ái, trung nghĩa cho hậu thế noi theo. Cụ mất ngày 10 tháng 3 (không rõ năm), an nghỉ tại nghĩa trang dòng họ xứ Cồn De, làng Phú Thượng, huyện Kỳ Anh, tỉnh Hà Tĩnh.
Cụ Nguyễn Trọng Thường sinh năm Quý Sửu
(1853) tại làng Phú Thượng, Kỳ Phú, Kỳ Anh, Hà Tĩnh, là hậu duệ đời thứ VII của
cụ Nguyễn Cao và là con thứ ba của cụ Nguyễn Văn Nhu.
Năm 1882 đậu Cử nhân Hạng ưu trường thi Nghệ An. Từ năm 1885 - 1896, được Triều đình nhà Nguyễn bổ các chức: Bang tá, quyền Tri huyện Thanh Chương; Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An; Quan Khảo hạch thi Hương, Biên tu Sử quán.
Năm 1896, được bổ làm Tri huyện Vĩnh Linh, tỉnh Quảng Trị. Đây là mốc son làm rạng danh dòng họ và quê hương khi cụ Nguyễn Trọng Thường và cha là cụ Nguyễn Văn Nhu cùng làm quan triều Nguyễn.
Cụ Nguyễn Trọng Thường vốn mang dòng trung nghĩa, nhân từ với tâm nguyện "làm quan là giúp dân bớt khổ" nên trước bối cảnh lịch sử đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân lầm than, Cụ đã "treo ấn từ quan" về sống tại quê nhà vào năm 1908.
Cụ tạ thế ngày 5/9/1918. Lăng mộ đặt tại Phú Hải, Kỳ Phú, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Cuộc đời và sự nghiệp của cụ là tấm gương sáng về tinh thần hiếu học với phẩm chất thanh liêm, chính trực và đức độ mãi lưu truyền hậu thế.